I – TÌNH HÌNH THỜI SỰ, CHÍNH TRỊ NỔI BẬT TRONG NƯỚC
Tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh các vùng trên cả nước
Trong tháng 11/2022, Bộ Chính trị đã tổ chức Hội nghị trực tiếp kết hợp với trực tuyến quán triệt và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo tại các Hội nghị. Cùng chủ trì có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng. Dự Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, cán bộ chủ chốt các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các tỉnh trong vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng.
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương kết nối với điểm cầu Trung ương và hơn 10 điểm cầu kết nối tới các đảng ủy trực thuộc Đảng bộ Khối.
* Ngày 16/11, Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Tại Hội nghị, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương đã quán triệt những nội dung chủ yếu của Nghị quyết. Hội nghị cũng đã nghe đồng chí Vũ Đức Đam, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ đại diện Ban cán sự Đảng Chính phủ trình bày dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết; đồng chí Nguyễn Đức Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội đại diện Đảng đoàn Quốc hội trình bày Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết và tham luận của các bộ, các tỉnh, thành phố trong vùng, làm phong phú, sâu sắc thêm vấn đề liên quan đến tiềm năng, lợi thế, những khó khăn, thách thức và đề xuất các giải pháp phát triển vùng thời gian tới.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của vùng, cũng như mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển vùng, nắm thật vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí và hành động, quyết tâm của toàn vùng, từng địa phương trong vùng, cũng như của cả nước, các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương; liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng. Tổng Bí thư đồng thời nhấn mạnh cần tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hội nhập quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mong muốn khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm, trung bình chủ nghĩa; trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết không cam chịu đói nghèo, thua kém các tỉnh khác, vùng khác... Tổng Bí thư yêu cầu Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp các địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, cơ chế, chính sách ưu tiên, có tính đặc thù cho phát triển vùng; xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia. Cần ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước, kết hợp huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các công trình trọng điểm có sức lan tỏa, giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng; phát triển vùng toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, nơi "mặt tiền", địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh biển đảo của Tổ quốc.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, tăng cường, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền. Bên cạnh đó, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong, gương mẫu về đạo đức và lối sống; thực hiện nghiêm các chủ trương về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, liêm chính, trong sạch; giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng quán triệt, cần phải khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh. Ban cán sự đảng Chính phủ cần khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ tin tưởng cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, tiếp tục phát huy truyền thống, cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
* Sáng 29/11, Bộ Chính trị tổ chức Hội nghị trực tiếp kết hợp với trực tuyến quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tại Hội nghị, sau khi nghe các ý kiến đại diện cho các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu nêu rõ những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết Bộ Chính trị lần này có 3 điểm đáng chú ý. Nghị quyết đã kế thừa, bổ sung, phát triển thành 5 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ, sát hợp với tình hình mới. Tổng Bí thư nhấn mạnh, Nghị quyết lần này, của Bộ Chính trị tiếp tục xác định: Vùng Đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển nhanh, bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng là trách nhiệm của các địa phương trong vùng và toàn hệ thống chính trị. Các địa phương trong vùng cần phải bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội; phát huy thật tốt vai trò là vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển vùng phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với Quy hoạch tổng thể quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược biển, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia. Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và thể chế điều phối phát triển vùng đủ mạnh, thiết thực, hiệu quả; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng...
Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số; phát huy mạnh hơn nữa truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng để phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm công bằng xã hội. Coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm nêu gương, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...
Về mục tiêu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nghị quyết đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Phấn đấu đến năm 2030, vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hiện đại, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại và hệ thống đô thị thông minh, kết nối... Đến năm 2045, đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm hàng đầu của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, thông minh và một số trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh, xanh, bền vững. Người dân có thu nhập cao, đời sống hạnh phúc và thịnh vượng...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, Nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững vùng, các tiểu vùng và các địa phương trong vùng; phát triển khoa học - công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh...
Để tổ chức thực hiện có kết quả Nghị quyết lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, của toàn vùng, của từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Tổng Bí thư lưu ý, phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý chí vươn lên, tự lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm; trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết vươn lên làm cho bản thân, gia đình và quê hương, đất nước giàu mạnh và tốt đẹp hơn, dẫn đầu cả nước. Tổng Bí thư yêu cầu, trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, vùng cần khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển. Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong vùng sớm xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên vượt trội, có tính đột phá cao cho phát triển vùng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, chú trọng và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị... Tổng Bí thư yêu cầu, ngay sau Hội nghị này, các cấp ủy và tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị ở các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ cần ráo riết chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết; giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng...
Với tinh thần: Cả nước vì Đồng bằng sông Hồng; Đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tin tưởng, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, đã đổi mới, nỗ lực phấn đấu rồi càng đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Đồng bằng sông Hồng.
Bế mạc Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV
Sau 21 ngày làm việc nghiêm túc, khẩn trương, khoa học, dân chủ và trách nhiệm cao, chiều 15/11, tại Hội trường Diên Hồng-Nhà Quốc hội, Quốc hội khóa XV đã bế mạc Kỳ họp thứ 4. Kỳ họp đã hoàn thành toàn bộ các nội dung chương trình đề ra, với sự đồng thuận, nhất trí cao. Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã báo cáo khái quát kết quả Kỳ họp.
Về kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước, Quốc hội đã dành nhiều thời gian thảo luận tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công năm 2022; đánh giá cao những kết quả quan trọng, nổi bật, khá toàn diện đã đạt được cả về phát triển kinh tế, xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh; an sinh xã hội; chăm sóc người có công và công tác đối ngoại của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đặc biệt của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần nâng cao vị thế, vai trò, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Quốc hội cũng lưu ý trong những tháng cuối năm 2022 và năm 2023, dự báo tình hình kinh tế và chính trị-an ninh thế giới vẫn diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong nước, áp lực lạm phát, tỷ giá, lãi suất tăng cao; thị trường tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân còn nhiều khó khăn. Quốc hội nhấn mạnh yêu cầu phải giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong mọi tình huống; tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương công vụ, tập trung giải quyết căn cơ, có kết quả cụ thể các yếu kém, điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công, trong xử lý các tổ chức tín dụng, các dự án, doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ; việc thiếu hụt nguồn cung ứng xăng dầu, tình trạng nghỉ việc, bỏ việc của nhân viên y tế, giáo dục và tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế…; tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu; chung sức, đồng lòng, phát huy tinh thần tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu hoàn thành cao nhất Kế hoạch năm 2022 và 2023, tạo tiền đề để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho cả giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Tại kỳ họp này, Quốc hội đã hoàn thành khối lượng lớn công việc lập pháp, thông qua 6 luật, 3 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, cho ý kiến lần 2 dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi); thảo luận lần đầu dự án Luật Đất đai (sửa đổi) và 6 dự án luật khác. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng và phát huy dân chủ, thực sự cầu thị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, các cơ quan, tổ chức hữu quan tổng hợp đầy đủ, tiếp thu, giải trình kịp thời, thấu đáo ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, nhất là đối với các vấn đề lớn, quan trọng hoặc còn có ý kiến khác nhau nên đã đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết khi Quốc hội thông qua.
Đối với dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi), Quốc hội đã thảo luận kỹ lưỡng, cân nhắc thận trọng, nhiều mặt và đã thống nhất với Chính phủ quyết định chưa xem xét, thông qua tại Kỳ họp này để có thêm thời gian hoàn thiện, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu thiết thực cả trước mắt và lâu dài của ngành y tế, nhưng vẫn đảm bảo thời gian có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2024 như dự kiến của Chính phủ và Quốc hội.
Quốc hội đã nghe và thảo luận sâu sắc, thực chất các báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi đến Kỳ họp thứ 4; báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến Kỳ họp thứ 3; xem xét các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng, công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án. Tại kỳ họp, Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021. Báo cáo giám sát đã nêu bật những kết quả quan trọng, khá toàn diện đã đạt được, chỉ rõ các tồn tại, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với 5 nội dung trọng điểm và 7 lĩnh vực trọng tâm theo quy định của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Kết quả hoạt động giám sát bước đầu đã làm chuyển biến cả về nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành; qua đó, chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã và đang tập trung rà soát tổng thể tình hình và các thông tin, số liệu có liên quan; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đồng thời ban hành kế hoạch, giải pháp để chấn chỉnh, khắc phục ngay các tồn tại, hạn chế theo kiến nghị của Đoàn giám sát.
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết “Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,” trong đó yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức hữu quan làm rõ các vi phạm, thất thoát, lãng phí đã được phát hiện; trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện các giải pháp khắc phục các khuyết điểm, tồn tại, hạn chế trong báo cáo của đoàn giám sát.
Quốc hội đề nghị các cơ quan nghiêm túc thực hiện Nghị quyết về giám sát, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực để đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững, tạo chuyển biến rõ rệt, căn bản trong công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để song hành với những kết quả quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác giám sát các nội dung liên quan và việc thực hiện các kiến nghị trong Nghị quyết giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong kế hoạch giám sát năm 2023 và các năm tiếp theo.
Hoạt động chất vấn tiếp tục có đổi mới, thực chất, sôi động, được cử tri, nhân dân cả nước và các vị đại biểu Quốc hội quan tâm liên quan lần này đến lĩnh vực nội vụ, xây dựng, thanh tra, thông tin và truyền thông. Thủ tướng Chính phủ, 4/4 Phó Thủ tướng Chính phủ, 4 vị trưởng ngành và 7 Bộ trưởng khác tham gia trả lời chất vấn, giải trình về những vấn đề liên quan. Quốc hội đã thống nhất cao thông qua Nghị quyết về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 4, xác định rõ nhiều chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và thời hạn hoàn thành cụ thể, yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các vị Bộ trưởng, trưởng ngành thực hiện quyết liệt, có hiệu quả những vấn đề đã cam kết, có giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực được chất vấn, báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện tại các kỳ họp sau. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã xem xét, quyết định kiện toàn nhân sự Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, đúng quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quốc hội đề nghị các vị mới được Quốc hội bầu, phê chuẩn nêu cao trách nhiệm, bản lĩnh, sớm nắm bắt công việc, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, giải quyết có hiệu quả những vướng mắc, bất cập để tạo bước phát triển mới trong các lĩnh vực được giao phụ trách, đóng góp vào sự phát triển chung, hoàn thành tốt trọng trách được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đáp ứng kỳ vọng của đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân cả nước.
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV với nhiều nội dung quan trọng, trong đó, đã quyết nghị: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 54/2017/QH14; giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thay thế Nghị quyết số 54/2017/QH14, trình Quốc hội xem xét, quyết định trong thời gian sớm nhất; Áp dụng thời hiệu xử lý kỷ luật hành chính đối với hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức đồng bộ với quy định xử lý kỷ luật của Đảng; Bổ sung thông tin “nơi sinh” vào hộ chiếu cấp cho công dân Việt Nam để tạo thuận lợi và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân khi nhập cảnh tại các nước.
Quốc hội đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cấp, các ngành khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện các luật, nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua. Các vị đại biểu Quốc hội sớm tiếp xúc cử tri để báo cáo kết quả Kỳ họp, giữ mối liên hệ chặt chẽ, lắng nghe, phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri, tích cực giám sát việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Các cấp, các ngành nỗ lực thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, gia đình chính sách, người lao động, người có hoàn cảnh khó khăn; chuẩn bị chu đáo các điều kiện phục vụ nhân dân đón mừng năm mới 2023 và Tết Nguyên đán Quý Mão, bảo đảm mọi người, mọi nhà đều được vui Xuân, đón Tết đầm ấm. Chủ tịch Quốc hội cho biết, đến thời điểm này có thể khẳng định, Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV đã thành công tốt đẹp. Quốc hội ghi nhận và đánh giá cao sự quyết tâm, nỗ lực của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức hữu quan đã phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng, chất lượng những nội dung của Kỳ họp; nhờ vậy, mặc dù có những điều chỉnh nhất định về chương trình, bổ sung thêm nội dung nhưng vẫn bảo đảm sự thông suốt, linh hoạt, hiệu quả trong điều hành và thực hiện thành công chương trình Kỳ họp với sự đồng thuận, thống nhất cao và thời gian kỳ họp được rút ngắn hơn. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII vừa qua đã yêu cầu tập trung thực hiện một số chủ trương, nhiệm vụ quan trọng để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh phải tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Tinh thần chỉ đạo đó đã được quán triệt, thực sự lan tỏa, thấm nhuần và được thể hiện đậm nét trong từng quyết sách và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng vị đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp lần thứ 4 này, để lại những dấu ấn, hình ảnh tốt đẹp đối với cử tri và đồng bào cả nước.
II - TIN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG ỦY KHỐI VÀ CƠ SỞ
Hội nghị Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương tháng 11/2022
Ngày 25/11/2022, tại Hà Nội, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương đã tổ chức Hội nghị Ban Thường vụ tháng 11. Đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có đồng chí Nguyễn Đức Phong, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Khối; các đồng chí Phó Bí thư Đảng uỷ Khối: Lê Văn Châu, Hồ Xuân Trường; đại diện lãnh đạo cấp vụ Cơ quan Uỷ Ban Kiểm tra Trung ương và các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Khối.
Tại Hội nghị, các đại biểu cho ý kiến vào các tờ trình về việc phê duyệt kết quả rà soát, bổ sung quy hoạch cấp uỷ nhiệm kỳ 2020-2025 (đợt 2) và quy hoạch cấp uỷ nhiệm kỳ 2025-2030 của các đảng uỷ trực thuộc Đảng uỷ Khối. Tờ trình về việc kiện toàn Ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ; kiện toàn chức danh Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra các đảng uỷ trực thuộc. Tờ trình về nhân sự quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng trong Khối; bổ sung và điều chỉnh phân công nhiệm vụ các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối. Tờ trình về việc thành lập lại các đảng bộ tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương theo Quy định số 60-QĐ/TW, ngày 08/3/2022 của Ban Bí thư; Tờ trình xin ý kiến dự thảo Báo cáo Sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 05/01/2021 của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế” và các nội dung khác.
Thường trực Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương làm việc với các đảng uỷ trực thuộc
Trong tháng 11/2022, Đoàn công tác của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương do đồng chí Nguyễn Long Hải - Ủy viên Dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối dẫn đầu đã đến thăm, làm việc và động viên cán bộ, công nhân viên Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam; Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro (thuộc Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam); Công ty Thủy điện Sơn La và Nhà máy Thủy điện Lai Châu (thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam); Tổng công ty Viễn thông MobiFone.
Tham gia đoàn công tác còn có đồng chí Nguyễn Đức Phong - Phó Bí thư Thường trực Đảng uỷ Khối; các đồng chí Phó Bí thư Đảng ủy Khối: Lê Văn Châu, Hồ Xuân Trường, cùng các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương (Khối DNTW) và đại diện lãnh đạo các ban, đơn vị của Đảng ủy Khối.
Đảng uỷ Tập đoàn CN Cao su Việt Nam
Báo cáo tại buổi việc, đại diện thường trực Đảng ủy Tập đoàn cho biết: Với vai trò là một Tập đoàn kinh tế Nhà nước, VRG luôn nỗ lực, chủ động, linh hoạt xây dựng kế hoạch, quyết tâm tập trung hoàn thành ở mức cao nhất kế hoạch năm 2022 và các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tập đoàn khóa IX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra. Mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh (SXKD) năm 2022, nhưng được sự quan tâm chỉ đạo, định hướng phát triển của Đảng và Chính phủ, cùng với sự lãnh đạo của Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương (DNTW), Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương và cấp uỷ, chính quyền địa phương nơi có đơn vị thành viên của Tập đoàn đứng chân, cùng với sự đoàn kết và quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong toàn Tập đoàn đã tích cực thực hiện nhiều giải pháp với tinh thần trách nhiệm cao phấn đấu hoàn thành kế hoạch ngay từ những ngày đầu tháng đầu, nên tình hình SXKD của Tập đoàn trong năm 2022 ổn định và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Năm 2022, Đảng ủy Tập đoàn đã chỉ đạo HĐQT, Ban Điều hành Tập đoàn tập trung chỉ đạo các đơn vị triển khai, thực hiện quyết liệt để phấn đấu hoàn thành kế hoạch. Kết quả ước thực hiện SXKD năm 2022 của Tập đoàn, cụ thể: sản lượng cao su khai thác đạt 422.923 tấn (vượt 6% KH), cao hơn 5% so với cùng kỳ năm trước; tiêu thụ đạt 411.217 tấn (đạt 82% KH năm), so với cùng kỳ đạt 91%; thu mua đạt 84.729 tấn (vượt 6% KH), so với cùng kỳ năm trước đạt 94%. Tổng doanh thu hợp nhất 28.280 tỷ đồng (bằng 95% KH), so với cùng kỳ đạt 100%. Tổng lợi nhuận trước thuế hợp nhất 4.895 tỷ đồng (bằng 76% KH), so với cùng kỳ đạt 79%. Nộp ngân sách Nhà nước theo quy định. Đảng ủy Tập đoàn cũng đẩy mạnh chỉ đạo các đơn vị, các tổ chức chính trị - xã hội tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động (NLĐ). Thu nhập bình quân của gần 80.000 lao động toàn Tập đoàn năm 2022 ước đạt 7,7 triệu đồng/người/tháng. Ngoài tiền lương, NLĐ còn được tạo điều kiện tăng gia sản xuất thu nhập từ phát triển kinh tế hộ gia đình. Mặc dù có những khó khăn trong hoạt động SXKD nhưng các đơn vị vẫn luôn cố gắng tạo điều kiện làm việc cũng như thu nhập ổn định cho NLĐ.
Tại buổi làm việc, Đảng ủy VRG kiến nghị Đảng ủy Khối DNTW xem xét thông qua Đề án thành lập Đảng bộ Công ty Mẹ Tập đoàn, để Đảng bộ Tập đoàn có cơ sở triển khai thực hiện đảm bảo quy định và đáp ứng thực tiễn hoạt động. Có quy định hoặc hướng dẫn tạo điều kiện cho các cấp ủy, tổ chức Đảng, đảng viên đang công tác và làm việc tại nước ngoài được sinh hoạt, học tập nghị quyết, chỉ thị, quy định… của Đảng tại Lãnh sự quán, Đại sứ quán ở nước ngoài. Đảng ủy VRG cũng kiến nghị Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và các ban, ngành Trung ương, sớm xem xét và ban hành Quyết định về Đề án cơ cấu lại Tập đoàn giai đoạn 2021 - 2025 để Tập đoàn có cơ sở tổ chức thực hiện. Tập đoàn cũng kiến nghị Ủy ban Quản lý vốn xem xét điều chỉnh kế hoạch năm 2022, trong điều kiện khó khăn do tác động của các yếu tố khách quan như xung đột giữa các nước tác động đến giá nguyên, nhiên liệu tăng, hậu quả của đại dịch Covid-19, thiên tai… ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của Tập đoàn.
Trong năm 2022, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và đạo đức được Đảng ủy VRG đặc biệt chú trọng và tiếp tục được tăng cường, đổi mới, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong doanh nghiệp. Bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp từng bước được nâng lên; việc triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, triển khai sâu rộng gắn liền với thực tiễn hoạt động sản xuất của đơn vị. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được coi trọng, có nhiều đổi mới, thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong doanh nghiệp.
Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Long Hải - Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối DNTW ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của Đảng bộ VRG trong thời gian qua. Là Đảng bộ có bề dày truyền thống, vì vậy, mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Tập đoàn, VRG đã đạt được kết quả tích cực trong SXKD và đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cũng như thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đồng chí Nguyễn Long Hải đề nghị, Đảng bộ VRG cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được cũng như vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra, giám sát để xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Tiếp tục quan tâm bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng cho người lao động; chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng Đảng, song song với thực hiện nhiệm vụ chính trị để hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Về các kiến nghị của Đảng ủy VRG, đồng chí Bí thư Đảng ủy Khối giao Văn phòng Đảng ủy Khối tổng hợp để gửi văn bản sang Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để thống nhất trình lãnh đạo các cấp. Trong khuôn khổ chương trình làm việc, đoàn công tác đã dâng hương tại tượng đài Phú Riềng Đỏ, thăm nhà truyền thống Cao su Dầu Tiếng và thăm hỏi, tặng quà cho công nhân tại Nhà máy Bến Súc, Công ty TNHH MTV Cao su Dầu Tiếng và Công ty TNHH MTV Cao su Phú Riềng.
Đảng ủy Tổng công ty Viễn thông MobiFone
Tại buổi làm việc, Thường trực Đảng ủy Tổng công ty báo cáo về công tác triển khai các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Đảng. Theo đó, trong năm 2022, Đảng ủy Tổng công ty và các cấp ủy trực thuộc đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời xây dựng và ban hành Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình công tác bám sát các chỉ đạo của Trung ương, Đảng ủy Khối DNTW, tình hình thực tế của Đảng bộ Tổng công ty và các tổ chức Đảng trực thuộc. Theo đó, trên cơ sở Chương trình công tác toàn khóa nhiệm kỳ 2020 - 2025, trong năm 2022, Đảng ủy Tổng công ty đã ban hành 01 Nghị quyết; 02 Chỉ thị; 50 Kết luận, Thông báo kết luận; 07 Chương trình; 03 Quy chế; 03 Quy định; 13 Kế hoạch; 06 Hướng dẫn và nhiều văn bản chỉ đạo khác nhằm cụ thể hóa các nội dung chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và những nhiệm vụ trọng tâm.
Các cấp ủy Đảng trong Đảng bộ Tổng công ty vừa tập trung thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng vừa đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh; tổ chức thực hiện chuyên đề năm 2022 của Đảng ủy Khối về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ theo Kế hoạch số 51-KH/ĐUK của Đảng ủy Khối DNTW gắn với việc thực hiện các quy định, các kết luận của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII của Đảng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai sát với tình hình thực tế của Đảng bộ Tổng công ty. Việc tuyên truyền, phổ biến, học tập, quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương, Đảng ủy Khối được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng thành phần, đúng theo yêu cầu. Việc triển khai các chỉ đạo của Đảng ủy Khối và chế độ thông tin báo cáo được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Nhờ đó, các mặt công tác xây dựng Đảng được triển khai có kế hoạch, chỉ tiêu rõ ràng ở từng cấp ủy Đảng.
Bên cạnh đó, Đảng uỷ Tổng công ty tập trung sửa đổi Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ và các cấp ủy trực thuộc; rà soát, sửa đổi, bổ sung ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, quy chế, quy định về công tác xây dựng Đảng theo các quy định, hướng dẫn mới của Trung ương, Đảng ủy Khối DNTW. Triển khai thực hiện Quy định số 60-QĐ/TW của Ban Bí thư về tổ chức đảng trong các tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước. Triển khai công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy, ủy ban kiểm tra Đảng ủy Tổng công ty và cấp ủy trực thuộc nhiệm kỳ 2020-2025 và xây dựng quy hoạch nhiệm kỳ 2025-2030.
Công tác bồi dưỡng, phát triển Đảng viên được chú trọng, đảm bảo cả về chất và lượng, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu Nghị quyết năm 2022 về phát triển Đảng viên (kết nạp 95 đảng viên mới, đạt tỷ lệ 119% chỉ tiêu Nghị quyết năm 2022). Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được quan tâm, nâng cao chất lượng, đảm bảo đúng theo quy định của Điều lệ Đảng. Công tác dân vận được quan tâm, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong cán bộ, đảng viên, người lao động của Tổng công ty. Lãnh đạo các tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên tiếp tục phát huy tốt vai trò của tổ chức trong việc giám sát và phản biện, góp ý xây dựng Đảng và đồng hành cùng sự phát triển của Tổng công ty.
Báo cáo về định hướng, chiến lược trong giai đoạn tiếp theo của MobiFone, lãnh đạo HĐTV MobiFone cho biết: Từ tổng quan chung xu hướng trên thế giới, các công ty viễn thông Việt Nam, các nhận định về kinh tế năm 2023 và các năm tiếp theo, MobiFone đã phân tích điểm mạnh, điểm yếu cùng các cơ hội và thách thức trong quá trình thực hiện chiến lược mới của MobiFone giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn 2030. Trước sự sụt giảm của thị trường viễn thông, MobiFone sẽ đầu tư vào không gian mới. Tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ mới sẽ cần đầu tư và hiệu quả không thể nhanh. Do vậy, trong giai đoạn đầu tư này, doanh thu có thể sụt giảm và MobiFone chấp nhận tạm lùi bước để tăng trưởng cho giai đoạn sau năm 2025.
Nhấn mạnh tầm nhìn của MobiFone đến năm 2030 là trở thành nhà cung cấp các sản phẩm, dịch vụ và hạ tầng số hàng đầu, qua đó tạo lập hệ sinh thái số cho khách hàng trong nước và quốc tế, lãnh đạo Tổng công ty cho biết, giá trị cốt lõi mà MobiFone xây dựng gồm 4 yếu tố: Thần tốc - Đổi mới - Chuyên nghiệp - Hiệu quả. Chiến lược phát triển của Tổng công ty Viễn thông MobiFone giai đoạn 2021-2025 và tầm nhìn 2030 sẽ được triển khai thông qua 5 trụ cột của dịch vụ số là khách hàng, sản phẩm, công nghệ, hoạt động và năng lực.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ủy, Hội đồng thành viên, Ban Tổng Giám đốc Tổng công ty cũng thẳng thắn nhìn nhận kết quả đạt được còn rất nhiều khó khăn, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận có tỷ lệ thực hiện thấp so với kế hoạch và so với yêu cầu. Một số khoản mục doanh thu thực hiện thấp so với kế hoạch đã ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận của Tổng công ty. Nguyên nhân của việc thực hiện kế hoạch thấp bao gồm cả nguyên nhân khách quan do thị trường chưa hồi phục được như kỳ vọng cũng như nguyên nhân chủ quan do công tác lập kế hoạch. Quyết tâm chiếm lĩnh không gian mới
Kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Long Hải, Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối ghi nhận những kết quả mà Đảng ủy MobiFone đã làm được, đặc biệt là Đảng ủy MobiFone đã nỗ lực tìm tòi hướng đi mới, nghiên cứu thực tiễn từ xuất phát điểm của mình, tìm ra sản phẩm dịch vụ mới để tránh xung đột với đối thủ. Về công việc thời gian tới, đồng chí Bí thư Đảng ủy Khối đề nghị Ban Thường vụ Đảng ủy MobiFone tiếp thu nghiêm túc tinh thần chỉ đạo cũng như ý kiến cụ thể của các đồng chí trong Thường trực Đảng ủy Khối. Đồng thời, nhấn mạnh việc MobiFone phải làm lại với Ủy ban quản lý Vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Bộ Thông tin - Truyền thông về các vấn đề chuyên môn. Đồng chí Nguyễn Long Hải cũng khẳng định Đảng ủy Khối sẽ luôn hỗ trợ các nỗ lực đổi mới sáng tạo của Tổng công ty.
Tiếp thu ý kiến chỉ đạo, lãnh đạo Tổng công ty khẳng định Đảng ủy MobiFone sẽ cụ thể hóa các chỉ đạo của Thường trực Đảng ủy Khối thành các nội dung hành động cụ thể. Theo đó, Đảng ủy MobiFone sẽ chú trọng hơn nữa công tác xây dựng Đảng, xem công tác xây dựng Đảng là một nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới. Đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV MobiFone cũng hứa với các đồng chí lãnh đạo Đảng ủy Khối, Đảng ủy Tổng công ty sẽ tiếp tục đoàn kết, phát huy hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ; chú trọng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ SXKD, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ của Đảng ủy Khối và các cơ quan cấp trên giao cho Tổng công ty.
Đảng ủy Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro
Tại buổi làm việc, Đoàn công tác đã đến thăm cảng Vietsovpetro, trực tiếp chứng kiến hoạt động xây lắp các công trình biển, tham quan hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng của Vietsovpetro, tặng quà cho người lao động. Đoàn cũng được giới thiệu tham quan phòng truyền thống, tìm hiểu về lịch sử 41 năm hình thành và phát triển của Liên doanh.
Trong chương trình làm việc, đại diện lãnh đạo Vietsovpetro đã báo cáo tóm tắt quá trình lịch sử 40 năm của Đảng bộ Vietsovpetro; kết quả hoạt động của Đảng bộ Vietsovpetro - lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh (SXKD) của Liên doanh trong 10 tháng đầu năm 2022 với những kết quả nổi bật, tập trung vào 5 nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Vietsovpetro nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra. Sau 40 năm xây dựng và phát triển, Đảng bộ Vietsovpetro đã không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lãnh đạo Vietsovpetro đạt được những thành tựu to lớn, khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển Ngành công nghiệp Dầu khí trong nước và vai trò nòng cốt của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Thông qua các nghị quyết, Đảng bộ Vietsovpetro đã lãnh đạo đảng viên, CBCNV, đoàn viên các đoàn thể chính trị - xã hội phía Việt Nam phối hợp chặt chẽ với tập thể lao động phía Nga vượt qua mọi khó khăn, thách thức, luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu SXKD, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế Việt Nam, đồng thời củng cố và vun đắp tình hữu nghị Việt - Nga.
Báo cáo cũng chỉ rõ những kết quả mà Liên doanh Vietsovpetro đạt được trong những năm qua, đặc biệt là tình hình thực hiện 10 tháng đầu năm 2022, về công tác tận thăm dò và thăm dò dầu khí tại các lô 09-1, 09-3/12, 09-2/09; công tác mở rộng vùng hoạt động tại các lô 09-2/10, 17 và 05-2/10; công tác mở rộng lĩnh vực hoạt động; sản lượng khai thác dầu/ condensate, khí thiên nhiên; thu gom đưa khí vào bờ, cung cấp và sử dụng khí gaslift; công tác khoan; xây dựng cơ bản và các dự án, công trình mới; cùng các hoạt động khác của Liên doanh như công tác sáng kiến - sáng chế, nghiên cứu khoa học, an toàn sức khỏe môi trường, tái cơ cấu - quản trị doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, và đặc biệt là hoàn thiện, phát triển các dịch vụ kỹ thuật cốt lõi phục vụ khai thác dầu khí và phát triển kinh tế biển.
Phát biểu tại buổi làm việc, lãnh đạo Tập đoàn đã khẳng định vai trò quan trọng của Đảng bộ Vietsovpetro trong hệ thống 32 Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, đã lãnh đạo một tổ chức kinh tế hoạt động hiệu quả trong suốt hơn 40 năm qua ở lĩnh vực cốt lõi nhất của Tập đoàn; đóng góp từ 28% - 30% tổng sản lượng khai thác dầu khí hàng năm trong toàn Tập đoàn, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước.
Theo đó, với bề dày lịch sử xây dựng và phát triển, đã đạt được những thành tựu vượt bậc, song, hiện nay Vietsovpetro đang gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế. Một phần nguyên nhân do hoạt động của Liên doanh dựa trên Hiệp định Liên chính phủ giữa hai nước Việt Nam - Liên bang Nga là có thời hạn, bị giới hạn bởi nhiều khung pháp lý nên việc đầu tư phát triển, mở rộng vùng hoạt động, mở rộng lĩnh vực hoạt động gặp nhiều trở ngại. Vì vậy, để không lãng phí nguồn nhân lực, vật lực, cơ sở vật chất và nguồn quỹ phát triển sản xuất vững mạnh mà Vietsovpetro đang sẵn có, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã kiến nghị đến Thường trực Đảng ủy Khối DNTW, tiếp tục có những ý kiến để sớm được Bộ Chính trị chấp thuận cho Petrovietnam và các đơn vị thành viên, đặc biệt là Vietsovpetro triển khai các dự án năng lượng tái tạo ngoài khơi (NLTTNK); tính toán đến nguồn lực, cơ sở hạ tầng, trình độ kỹ thuật cũng như đội ngũ nhân lực chất lượng cao của Tập đoàn, cũng như của Vietsovpetro để triển khai xây dựng định hướng phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, cơ khí năng lượng… là những nhóm lĩnh vực mà Vietsovpetro có nhiều thế mạnh; mở rộng khung pháp lý để Tập đoàn và các đơn vị thành viên có thể mở rộng vùng hoạt động, lĩnh vực hoạt động, tham gia sâu hơn nữa vào ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng tái tạo ngoài khơi, tiếp tục có những đóng góp cho nền kinh tế quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển.
Phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Long Hải - Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối DNTW đã đánh giá cao mô hình tổ chức Đảng đặc biệt của Vietsovpetro, cũng như kết quả hoạt động của Đảng bộ Vietsovpetro trong hơn 40 năm qua và những thành tích đáng ghi nhận của Liên doanh trong những năm trở lại đây, có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng chí Nguyễn Long Hải bày tỏ tin tưởng rằng, Luật Dầu khí (sửa đổi) vừa được thông qua với nhiều điểm mới quan trọng, mở ra những cơ chế thuận lợi, đáp ứng mong mỏi phát huy tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên, sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành Dầu khí trong thời gian tới.
Đối với những vấn đề vướng mắc, khó khăn và những đề xuất, kiến nghị của Đảng ủy Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam cũng như của Đảng ủy Vietsovpetro, đồng chí Nguyễn Long Hải ghi nhận, khẳng định Đảng ủy Khối DNTW luôn thể hiện quan điểm ủng hộ, đồng tình với đề án chiến lược phát triển của Tập đoàn; ưu tiên đề cập đến các kiến nghị của Tập đoàn trong các cuộc làm việc với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành liên quan.
Các kiến nghị về công tác xây dựng Đảng của Đảng ủy Vietsovpetro, Bí thư Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương cũng bày tỏ quan điểm ủng hộ, đồng tình; đồng thời chỉ đạo Ban Tổ chức Đảng ủy Khối khẩn trương nghiên cứu, tham mưu các thủ tục cụ thể về việc kết thúc thí điểm và giao đầy đủ thẩm quyền cấp ủy cấp trên cơ sở cho Đảng ủy Vietsovpetro.
Nhà máy Thủy điện Lai Châu và Công ty Thủy điện Sơn La
* Báo cáo tại buổi làm việc, đại diện Công ty Thủy điện Sơn La cho biết: Đảng bộ cơ sở Công ty Thủy điện Sơn La là tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng ủy EVN, hiện có 79 đảng viên sinh hoạt tại 07 chi bộ. Công ty đang quản lý vận hành Nhà máy Thủy điện Sơn La (2.400MW) và Nhà máy Thủy điện Lai Châu (1.200MW), đều là các công trình quan trọng có liên quan đến an ninh quốc gia.
Thời gian qua, Đảng ủy Công ty đã lãnh đạo đơn vị vận hành an toàn, ổn định, hiệu quả các tổ máy, tổng sản lượng điện phát luỹ kế tính đến thời điểm ngày 31/10/2022 đạt gần 125 tỷ kWh. Công ty thường xuyên chủ động theo dõi tình hình khí tượng thủy văn để đề xuất với cấp có thẩm quyền điều tiết các hồ chứa đảm bảo tận dụng tối đa nguồn nước trên lưu vực sông Đà. 9 tổ máy thuộc NMTĐ Sơn La và Lai Châu có vai trò quan trọng trong quá trình điều tần, điều áp giữ ổn định hệ thống điện Việt Nam. Luôn thực hiện đúng phương thức vận hành tổ máy của Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia.
Công ty Thuỷ điện Sơn La luôn là đơn vị dẫn đầu về giá trị, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách các địa phương, góp phần không nhỏ trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc. Tổng giá trị nộp ngân sách nhà nước từ khi thành lập đến nay đạt hơn 21.700 tỷ đồng; đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, là điểm sáng trong công tác chăm lo sống người lao động, giúp người lao động luôn gắn bó, cống hiến hết mình vì Công ty. Năm 2015, Công ty Thủy điện Sơn La là đơn vị được vinh danh trong chương trình “Bảng xếp hạng doanh nghiệp vì Người lao động” do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức. Trong hơn 10 năm thành lập, Công ty thực hiện nhiều chương trình an sinh xã hội có ý nghĩa lớn, góp một phần nhỏ trách nhiệm của Công ty đến với công tác xã hội ở địa phương. Tổng giá trị thực hiện công tác an sinh xã hội 10 năm qua đạt trên 11,249 tỷ đồng.
Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Long Hải - Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy Khối DNTW ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của Đảng bộ Công ty Thủy điện Sơn La trong thời gian qua. Mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ Tập đoàn, Đảng bộ Công ty Thủy điện Sơn La đã đạt được kết quả khá toàn diện; hoàn thành thắng lợi các các chỉ tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng đảng cũng như thực hiện nhiệm vụ chính trị. Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và đạo đức đặc biệt được chú trọng và tiếp tục được tăng cường, đổi mới, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong doanh nghiệp. Bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp từng bước được nâng lên; việc triển khai Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, triển khai sâu rộng gắn liền với thực tiễn hoạt động sản xuất của đơn vị. Công tác kiểm tra, giảm sát, kỷ luật đảng được coi trọng, có nhiều đổi mới, thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong doanh nghiệp.
Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất - vận hành Nhà máy Thủy điện Sơn La và Nhà máy Thủy điện Lai Châu góp phần quan trọng cùng Tập đoàn đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống của nhân dân và góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội tại địa phương và các tỉnh Tây Bắc. Nhiệm vụ an ninh, quốc phòng luôn được chú trọng và thường xuyên được quan tâm, tăng cường đặc biệt là công tác bảo vệ Nhà máy Thủy điện Sơn La và Nhà máy Thủy điện Lai Châu sau khi Thủ tướng Chính phủ có quyết định đưa vào danh mục công trình quan trọng có liên quan đến an ninh Quốc gia.
Đồng chí Bí thư Đảng uỷ Khối DNTW yêu cầu Đảng bộ Công ty Thủy điện Sơn La cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được cũng như vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra, giám sát để xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
* Trước đó, Đoàn công tác đã đến thăm và làm việc tại Nhà máy Thủy điện Lai Châu. Đại diện lãnh đạo Nhà máy cho biết: Công trình Thủy điện Lai Châu có 3 tổ máy với tổng công suất lắp đặt 1.200MW, sản lượng phát điện trung bình hàng năm là 4,67 tỷ kWh. Công trình được khởi công ngày 05/11/2011, phát điện tổ máy số 1 vào tháng 12/2015 và khánh thành ngày 20/12/2016, vượt tiến độ 1 năm so với Nghị quyết của Quốc hội. Thủy điện Lai Châu là một trong số sáu Nhà máy điện lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 2012/QĐ-TTg ngày 24/10/2016. Ngày 16/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 419/QĐ-TTg đưa công trình Nhà máy Thuỷ điện Lai Châu vào danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh Quốc gia; cung cấp điện năng cho các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng cho các tỉnh vùng Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Ngoài chức năng phát điện và chống lũ cho các tỉnh đồng bằng sông Hồng, công trình Nhà máy Thủy điện Lai Châu còn điều phối hợp lý nguồn nước, tăng khả năng phát điện cho các công trình thủy điện bậc thang phía hạ lưu sông Đà gồm: thủy điện Sơn La và thủy điện Hòa Bình. Đây cũng là công trình thủy điện lớn góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tỉnh Lai Châu nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Tính đến nay, Nhà máy đã đóng góp cho ngân sách tỉnh Lai Châu khoảng 5.100 tỷ đồng.
Vietcombank giảm lãi suất cho vay VND hỗ trợ khách hàng năm 2022
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) vừa thông báo, thực hiện chủ trương của Quốc hội, Chính phủ và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về triển khai các giải pháp thúc đẩy phục hồi và phát triển nền kinh tế, năm 2022, Vietcombank tiếp tục triển khai chính sách giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng.
Theo đó, Vietcombank quyết định giảm lãi suất tới 1,0%/năm đối với các khoản vay VND cho các khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân hiện hữu, bắt đầu từ 01/11/2022 đến hết 31/12/2022 (Chính sách giảm lãi suất nói trên không áp dụng với các khoản vay chứng khoán, vay kinh doanh bất động sản, vay cầm cố giấy tờ có giá…).
Được biết, trong năm 2020 và 2021, để hỗ trợ và chia sẻ cùng khách hàng trước những khó khăn của dịch Covid-19, Vietcombank đã đi đầu trong việc thực hiện các chính sách giảm lãi suất cho vay, miễn giảm phí dịch vụ dành cho khách hàng tổ chức và khách hàng cá nhân. Vietcombank tin rằng đây sẽ là những hành động thiết thực, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Vietcombank trong việc chủ động, tiên phong thực hiện các chính sách điều hành của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước, nỗ lực vì mục tiêu phục hồi và phát triển kinh tế của đất nước.
BIDV lần thứ 7 được vinh danh "Thương hiệu quốc gia"
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trực tiếp trao biểu trưng “Thương hiệu Quốc gia” cho đại diện Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) trong khuôn khổ “Lễ Công bố sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2022” vừa được tổ chức tại TP. Hà Nội.
Việc BIDV lần thứ 7 được vinh danh “Thương hiệu quốc gia” là sự ghi nhận những nỗ lực vượt bậc, sự đóng góp, vai trò và giá trị của ngân hàng trong sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế của đất nước. Năm 2003, khi lần đầu tiên được trao danh hiệu này, BIDV có tổng tài sản đạt hơn 90 nghìn tỷ đồng, đến nay sau 19 năm nỗ lực, BIDV đã phát triển mạnh mẽ, trở thành ngân hàng thương mại có quy mô lớn nhất Việt Nam với tổng tài sản đạt 2,05 triệu tỷ đồng (đến 30/9/2022), tăng gấp 23 lần so với năm 2003... Được vinh danh “Thương hiệu quốc gia” cũng là động lực để BIDV tiếp tục nâng cao hơn nữa giá trị sản phẩm, dịch vụ, năng lực cạnh tranh, góp phần khẳng định uy tín, thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam và ngành Ngân hàng nói riêng trên thị trường khu vực và quốc tế.
Trong những năm qua, BIDV không ngừng đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ nhằm gia tăng trải nghiệm tích cực cho khách hàng. BIDV ghi dấu ấn tiên phong với việc ra mắt các ứng dụng, tiện ích ngân hàng điện tử hiện đại như BIDV SmartBanking, BIDV iBank, ứng dụng blockchain trong tài trợ thương mại,... Năm 2022 với phương châm hành động “Kỷ cương, Hiệu quả, Chuyển đổi số”, BIDV tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm phục vụ hơn 15 triệu khách hàng cá nhân và doanh nghiệp ngày một tốt hơn. Trong hoạt động kinh doanh, BIDV duy trì sự ổn định, an toàn, hiệu quả... Đến hết quý III/2022, BIDV tiếp tục giữ vững vị thế là ngân hàng thương mại có quy mô lớn nhất Việt Nam; tổng tiền gửi của khách hàng và phát hành giấy tờ có giá đạt 1,56 triệu tỷ đồng; cho vay khách hàng đạt 1,5 triệu tỷ đồng; chênh lệch thu chi hợp nhất đạt 36.943 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 17.677 tỷ đồng.
Tổ máy số 1 Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 chạy thử vượt công suất phát tối đa theo thiết kế
Vừa qua, Đoàn công tác của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã kiểm tra tiến độ, đôn đốc công tác vận hành nâng công suất Tổ máy số 1 Nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) Thái Bình 2.
Theo báo cáo tiến độ dự án của Tổng thầu PETROCONs, tính đến ngay 16/11, dự án còn 45 ngày phải hoàn thành, tiến độ tổng thể đạt 97,11%. Tình hình triển khai các hạng mục chính trên công trường dự án như hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nâng công suất cho Tổ máy số 1. Trong đó, Tổng thầu PETROCONs và các nhà thầu đang tập trung tăng cường nhân lực đẩy nhanh lợp tôn kho than, băng tải than. Nhà thầu FLS - Nhà thầu vận hành hệ thống cũng tăng ca, tăng nhân sự để giảm thời gian chạy thử đồng bộ cho toàn bộ hệ thống của nhà máy. Công tác lợp tôn và vận hành kho than số 2 đã hoàn thành 98,8%, hệ thống băng chuyền vận chuyển than của nhà máy cũng hoàn thành tới 97%. Các hạng mục như trạm bơm nước hồi từ bãi thải tro xỉ, hệ thống Phòng cháy chữa cháy cũng đang được khẩn trương hoàn thành các công đoạn cuối cùng. Các hạng mục liên quan đến công tác chạy thử của Tổ máy số 1 như hệ thống máy nghiền than, hệ thống khử NOx, hệ thống khử lưu huỳnh… đều đang trong quá trình chạy thử, tối ưu, sẵn sàng cho Tổ máy số 1 nâng công suất vận hành.
Đối với Tổ máy số 2, Tổng thầu PETROCONs cũng cho biết, ngay sau khi hòa điện lần đầu bằng dầu, các nhà thầu vận hành chạy thử, cùng các chuyên gia biệt phái từ đơn vị thuộc Petrovietnam… đang tiến hành bảo dưỡng sửa chữa, hiệu chỉnh để hướng đến mốc hòa điện bằng than lần đầu. Hiện nay, dự án NMNĐ Thái Bình 2 đang bước vào giai đoạn cực kỳ thách thức khi vừa phải hoàn thiện công tác xây dựng, lắp đặt và vừa phải tổ chức công tác chạy thử nghiệm thu đối với các tổ máy, đồng thời phải khẩn trương chuẩn bị cho giai đoạn vận hành thương mại vào cuối năm 2022. Hơn thế nữa, sự biến động liên tục từ thị trường thế giới cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác nhập than, dầu HFO, cũng như chi phí đối với các chuyên gia vận hành quốc tế đến Việt Nam. Mặt khác, các công tác cấp thiết như chuẩn bị các loại giấy phép hoạt động điện lực, chuẩn bị nguyên vật liệu cho giai đoạn chạy thử nghiệm thu, vận hành thương mại, hợp đồng mua bán điện và hoàn thiện bộ máy để tiếp nhận và vận hành nhà máy… đều gặp không ít khó khăn.
Sau khi nghe báo cáo và kiểm tra thực địa, lãnh đạo Petrovietnam đánh giá cao nỗ lực và cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên, người lao động tại NMNĐ Thái Bình 2. Đồng thời yêu cầu cán bộ công nhân viên cần phải tập trung hơn nữa trong mọi mặt công tác, nâng cao ý thức và quyết tâm triển khai dự án. Trong đó, tập trung lưu ý 3 nhóm công tác cần phải khẩn trương triển khai gồm: Chuẩn bị kỹ càng về nguyên vật liệu đầu vào cho nhà máy gồm nhiên liệu than (trong giai đoạn này phải đặc biệt lưu ý đảm bảo chất lượng theo thiết kế để nghiệm thu chính xác được các thông số kỹ thuật), dầu HFO và các vật tư, thiết bị dự phòng phục vụ quá trình chạy thử nghiệm thu các Tổ máy. Nỗ lực đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu ra là các giấy phép hoạt động điện lực, hợp đồng mua bán điện,… đặc biệt là giấy phép PCCC. Rà soát, hoàn thiện toàn bộ quy trình vận hành, bảo dưỡng sửa chữa trên cơ sở các tài liệu kỹ thuật của thiết bị để đảm bảo tính khoa học, bài bản cho quá trình chạy thử nghiệm thu hiện nay và công tác vận hành thương mại sau này. Được biết, vào lúc 21h 54’ ngày 16/11/2022, Tổ máy số 1 của NMNĐ Thái Bình 2 đã thực hiện thành công tác nâng công suất chạy thử tối đa lên 602 MW (đạt và vượt so với công suất phát tối đa của tổ máy theo cam kết của Hợp đồng EPC là 600MW). Đây là dấu mốc đáng ghi nhận cho những nỗ lực của Petrovietnam trong công tác tổ chức, tái khởi động lại dự án NMNĐ Thái Bình 2 và những cố gắng của tập thể Ban QLDA, Tổng thầu EPC, các cán bộ kỹ sư trên công trường, cũng như lực lượng chuyên gia chạy hỗ trợ từ các đơn vị thành viên thuộc Petrovietnam như PVCFC, PVFCCo, PV Power, PVPS,… và đặc biệt, dấu mốc 602 MW này còn là minh chứng cho chất lượng thiết bị, sự khẳng định đối với trình độ kỹ thuật, kinh nghiệm vận hành của Người dầu khí đối với các Nhà máy Nhiệt điện than công suất lớn. Về mặt kỹ thuật, việc hoàn thành nâng công suất tối đa Tổ máy số 1 NMNĐ Thái Bình 2 là tiền đề để tiếp tục thực hiện các thí nghiệm hiệu chỉnh, tối ưu chế độ vận hành, nghiệm thu các thông số kỹ thuật,… chuyển sang giai đoạn chạy tin cậy và phấn đấu hoàn thành mục tiêu quan trọng nhất là phát điện thương mại trong năm 2022.
Tập đoàn Bảo Việt chi trả hơn 2.246 tỷ đồng cổ tức bằng tiền trong tháng 12/2022
Vừa qua, Tập đoàn Bảo Việt đã thông qua Nghị quyết chi trả cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 30,261% trên mệnh giá cổ phiếu, tương đương số tiền chi trả hơn 2.246 tỷ đồng.
Theo đó, từ ngày 28/12/2022, cổ đông sở hữu mỗi 1 cổ phiếu sẽ được chi trả 3.026,1 đồng. Mức cổ tức bằng tiền với tỷ lệ 30,261% trên mệnh giá cổ phiếu, tương đương số tiền chi trả hơn 2.246 tỷ đồng, được coi là mức cổ tức hấp dẫn trên thị trường chứng khoán hiện nay. Như vậy, tổng số tiền dự kiến chi trả cổ tức cho cổ đông của BVH từ khi cổ phần hóa (năm 2007) đến nay lên tới gần 11.700 tỷ đồng.
Với tiềm lực tài chính mạnh, quy mô vốn và tài sản hàng đầu trong các doanh nghiệp bảo hiểm, Bảo Việt luôn thực hiện các cam kết với cổ đông, gia tăng giá trị cho nhà đầu tư. Từ khi cổ phần hóa đến năm 2022, tổng số tiền Bảo Việt nộp vào Ngân sách Nhà nước lên đến gần 27.000 tỷ đồng. Theo số liệu trước soát xét, trong 9 tháng đầu năm 2022, tổng doanh thu hợp nhất của Bảo Việt đạt 40.254 tỷ đồng, tăng trưởng 10,5% so với cùng kỳ năm 2021. Lợi nhuận trước thuế và sau thuế hợp nhất lần lượt đạt 1.551 và 1.250 tỷ đồng. Tổng tài sản hợp nhất tại 30/09/2022 gần 8 tỷ USD, đạt 190.853 tỷ đồng, tăng 12,6% so với thời điểm 31/12/2021. Tổng doanh thu Công ty Mẹ đạt 1.160 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 795 tỷ đồng, tăng trưởng lần lượt 6,9% và 2,6% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng tài sản Công ty Mẹ tại ngày 30/9/2022 đạt 19.559 tỷ đồng; vốn chủ sở hữu đạt 19.278 tỷ đồng, tăng tương ứng 3,4% và 4,1% so với thời điểm 31/12/2021.
III - TIN THAM KHẢO
Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư là sự kiện đặc biệt quan trọng
Theo TTXVN, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã diễn ra từ ngày 30/10-1/11.
Chuyến thăm là sự kiện đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc, được dư luận hai nước và quốc tế rất quan tâm. Chuyến thăm đã thành công tốt đẹp trên tất cả các phương diện. Đây là hoạt động đối ngoại chính thức trực tiếp đầu tiên giữa Lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo cao nhất nước ngoài đầu tiên mà Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đón tiếp ngay sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc - sự kiện chính trị trọng đại hàng đầu của Đảng và nhân dân Trung Quốc. Điều này thể hiện sự coi trọng lẫn nhau giữa hai Đảng, hai nước, nhất là sự trân trọng của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc và cá nhân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đối với Tổng Bí thư Đảng ta, thông qua việc thu xếp đón Tổng Bí thư Đảng ta với mức lễ tân cao nhất và có nhiều thu xếp đặc biệt.
Chuyến thăm lần này là sự tiếp nối các cuộc trao đổi, tiếp xúc thường xuyên giữa hai nhà Lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước những năm qua. Riêng trong năm 2020 và 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã 4 lần điện đàm, hai bên cũng thường xuyên trao đổi thư, điện mừng nhân các sự kiện lớn của mỗi bên.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay, công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước bước vào giai đoạn mới, chuyến thăm chính thức Trung Quốc lần này của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa hết sức quan trọng, tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc trong giai đoạn mới; củng cố tin cậy chính trị, góp phần tạo nền tảng chính trị vững chắc và thúc đẩy hợp tác thực chất trên các lĩnh vực giữa hai nước; tăng cường tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc. Chuyến thăm góp phần thể hiện Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn coi trọng và ưu tiên hàng đầu cho việc xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc, vì lợi ích căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới và khu vực. Chuyến thăm cũng nhằm thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, đây là sự kiện chính trị đối ngoại đặc biệt quan trọng đối với cả hai Đảng, hai nước. Thông qua chuyến thăm, hai bên tăng cường tình cảm, sự tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau, góp phần tích cực vào việc phát huy tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống Việt Nam-Trung Quốc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc. Trong chuyến thăm, hai bên đã ra Tuyên bố chung gồm 13 điểm, bao gồm cả những nội dung mang tính chiến lược định hướng cho phát triển quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực trong thời gian tới; nhất trí tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.” Đồng thời, hai bên cũng đạt được nhất trí trong nhiều nội dung hợp tác thực chất, như thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với Sáng kiến “Vành đai và Con đường,” thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường cho một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam, mở các văn phòng thương mại Việt Nam tại Trung Quốc.
Hai bên sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác đầu tư, kinh tế-thương mại, hợp tác trong lĩnh vực vận tải hàng không, đường bộ và đường sắt. Ngoài ra, hai bên cũng thể hiện quyết tâm trong việc nỗ lực nhằm giảm bớt vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai nước, tìm kiếm các biện pháp giải quyết dứt điểm tình trạng ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới, vừa đảm bảo an toàn phòng chống dịch, vừa duy trì thông quan thuận lợi.
Về vấn đề trên biển, hai bên nhất trí cho rằng kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông vô cùng quan trọng, đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp.
Nhân dịp này, các bộ, ngành, địa phương của hai bên đã ký kết 13 văn kiện và thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Đây là cơ sở và tiền đề để các bộ, ngành, địa phương hai nước triển khai hợp tác một cách hiệu quả trong những năm tiếp theo, góp phần đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và trên thế giới.
“Tuyên bố chung về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc” và 13 văn kiện hợp tác trên các lĩnh vực đã phản ánh một cách chân thực và sinh động về tầm vóc cũng như mức độ gắn kết của quan hệ Việt Nam-Trung Quốc; khẳng định quyết tâm mạnh mẽ của hai Đảng, hai nước trong việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.
Để triển khai những nhận thức chung quan trọng đạt được của hai đồng chí Tổng Bí thư và thành quả của chuyến thăm, trong thời gian tới hai bên sẽ tập trung thúc đẩy trên các phương diện sau:
Một là, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, củng cố và lan tỏa tin cậy chính trị với việc duy trì thường xuyên hoạt động tiếp xúc cấp cao và các cấp. Hai bên tiếp tục duy trì và tăng cường truyền thống tốt đẹp giao lưu cấp cao giữa hai Đảng, hai nước thông qua các hình thức như thăm lẫn nhau, cử đặc phái viên, điện thoại đường dây nóng, trao đổi thư điện, gặp gỡ thường niên và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương để kịp thời trao đổi ý kiến về các vấn đề lớn trong quan hệ hai nước, định hướng và chỉ đạo từ tầm cao chiến lược nhằm duy trì quan hệ hai nước phát triển ổn định, lành mạnh.
Tiếp tục phát huy tốt vai trò của các cơ chế trao đổi, hợp tác quan trọng giữa hai Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc và các Bộ, ngành, lĩnh vực quan trọng như ngoại giao, công an, quốc phòng...; đẩy mạnh giao lưu nhân dân và hợp tác địa phương, làm vững chắc nền tảng xã hội và tạo động lực mới cho sự phát triển của quan hệ Việt-Trung.
Hai là, tạo chuyển biến mạnh mẽ, thực chất và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế-thương mại, đầu tư cũng như các lĩnh vực khác, mang lại lợi ích thiết thực và tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ hai nước. Hai bên sẽ áp dụng các biện pháp thiết thực giảm bớt vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai nước, tạo thuận lợi về thông quan hàng hóa, thúc đẩy an toàn, ổn định chuỗi sản xuất và duy trì thông suốt chuỗi cung ứng giữa hai nước; thúc đẩy xuất nhập khẩu nhiều hơn nữa các sản phẩm nông sản, thực phẩm chất lượng cao của hai nước, trong đó tích cực thúc đẩy tiến trình mở cửa thị trường Trung Quốc cho các mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam. Bên cạnh đó, hai bên sẽ đẩy mạnh kết nối giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, bao gồm việc tạo điều kiện để doanh nghiệp đường sắt hai nước tăng cường hợp tác nâng cao lượng vận chuyển hàng hóa Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc. Thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường, khoa học công nghệ, y tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; tích cực nghiên cứu hợp tác trên các lĩnh vực như phát triển xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu, kinh tế số; tiếp tục quản lý tốt biên giới trên đất liền, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Ba là, kiểm soát và xử lý thỏa đáng bất đồng trên biển, duy trì môi trường hoà bình, ổn định ở Biển Đông và trong khu vực. Hai bên tuân thủ nghiêm nhận thức chung cấp cao; tôn trọng lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982; tiếp tục sử dụng hiệu quả cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc và các Nhóm công tác về vấn đề trên biển; cùng với các nước ASEAN thực hiện đầy đủ, hiệu quả DOC, phấn đấu sớm đạt được COC thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
Bộ Ngoại giao tin tưởng, với việc triển khai đầy đủ, toàn diện, hiệu quả các nhận thức chung cấp cao và kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quan hệ láng giềng hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc sẽ tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới, như mong muốn của hai đồng chí Tổng Bí thư hai nước là đưa quan hệ song phương bước sang giai đoạn phát triển mới với tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác thực chất hơn, nền tảng xã hội vững chắc hơn và bất đồng được kiểm soát tốt hơn.
Hiện thực hóa các hệ giá trị nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc
Ngày 29/11, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc gia “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”. Tham gia Hội thảo có khoảng 500 đại biểu là nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý văn hóa, Thường trực một số Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo một số cơ quan báo chí, truyền thông và Văn phòng UNESCO tại Việt Nam ở 3 điểm cầu Hà Nội, Thừa Thiên - Huế và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hội thảo được tổ chức nhằm tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021. Với hơn 80 tham luận gửi đến Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, quản lý và văn nghệ sĩ tập trung phân tích, làm rõ các hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam và mối quan hệ biện chứng giữa các hệ giá trị đó.
Phát biểu kết luận Hội thảo, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Hội thảo nhấn mạnh: Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Ban tổ chức Hội thảo thống nhất cao khẳng định tính cấp thiết phải nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Khẳng định việc nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện các hệ giá trị này có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng để phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hội thảo đã tập trung làm sâu sắc hơn vai trò của từng hệ giá trị và mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị này trong xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong đó nhấn mạnh lấy chuẩn mực xây dựng con người là trung tâm; hệ giá trị gia đình là cơ bản; hệ giá trị văn hóa là nền tảng, hệ giá trị quốc gia – dân tộc là mục tiêu cao cả, chi phối các hệ giá trị khác. Sự phân định ở đây về các hệ giá trị là tương đối vì các hệ giá trị này có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ và chuyển hóa lẫn nhau để tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nêu rõ: Về nội dung của các hệ giá trị, từ nhiều bình diện khác nhau, các đại biểu tiếp tục phân tích làm rõ hơn các nội dung trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021. Về hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng gồm 8 giá trị chủ yếu là: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Hệ giá trị gia đình gồm 4 giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh. Hệ giá trị văn hóa gồm 4 giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học. Hệ giá trị quốc gia gồm 9 giá trị: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Nội dung của các hệ giá trị này vừa đảm bảo được tính khái quát, cô đọng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, vừa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước, vừa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân hiện nay. Hội thảo thống nhất ý kiến bên cạnh việc tiếp tục nghiên cứu, xác định các hệ giá trị, cần xây dựng, ban hành và triển khai để hiện thực hóa các hệ giá trị này trong đời sống thực tiễn thông qua sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, của toàn thể nhân dân. Cần tạo ra một cuộc vận động lớn về xây dựng và thực hành các hệ giá trị Việt Nam gắn liền với phong trào thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Phát huy vai trò của tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp, các ngành, của đội ngũ tri thức văn nghệ sĩ, của các đơn vị hoạt động văn hóa, nghệ thuật; các cơ quan thông tin đại chúng trong việc khẳng định và lan tỏa, truyền cảm hứng, tạo ra sự thống nhất và đồng thuận xã hội trong việc nghiên cứu, xây dựng và thực hành các hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Từ những kết quả được Hội thảo thống nhất, đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa nhấn mạnh 5 nhóm giải pháp trọng tâm thực hiện trong thời gian tới.
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc và toàn diện hơn nữa những nội dung về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo phát biểu định hướng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, xây dựng, cụ thể hóa các hệ giá trị cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của từng lĩnh vực, từng địa phương nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, góp phần xây dựng nhân cách, con người, xây dựng gia đình, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện mục tiêu cao cả phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Thứ ba, phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa - xã hội, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh và truyền hình ở Trung ương và địa phương trong việc sáng tạo, xây dựng, hiện thực hóa các hệ giá trị vào trong đời sống xã hội; khẳng định những mặt tích cực, lên án, phê phán cái xấu, cái ác, cái giả; khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, lan tỏa các tấm gương tích cực trong đời sống xã hội để xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, truyền cảm hứng tích cực cho xã hội, đặc biệt là với thanh thiếu niên.
Thứ tư, cấp ủy và chính quyền các cấp cần lồng ghép thực hiện các hệ giá trị trong chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, của mỗi lĩnh vực, nhất là gắn kết việc hiện thực hóa các giá trị này với nhiệm vụ xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Thứ năm, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan tiếp tục phối hợp nghiên cứu, tham mưu trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề nghiên cứu, xây dựng và triển khai hiện thực hóa các hệ giá trị đã được đề cập tại Hội thảo này. Đồng thời, đề nghị các cơ quan và đơn vị chức năng trong hệ thống chính trị phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách, bố trí nguồn lực hợp lý, cần thiết để tạo nên những đột phá mới trong việc triển khai, thực hiện các hệ giá trị trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hạnh phúc.
V - VĂN BẢN, QUYẾT ĐỊNH MỚI
Hướng dẫn số 74-HD/BTGTW tuyên truyền kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
Ngày 02/11/2022, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 74-HD/BTGTW về hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973 - 27/1 2023). Nội dung Hướng dẫn xem tại đây.
Chỉ thị số 17-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới
Ngày 21/10/2022, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 17-CT/TW về tăng cường bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm trong tình hình mới. Nội dung Chỉ thị xem tại đây.
Bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm y tế
Để bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm y tế, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 144/NQ-CP, ngày 05/11/2022, trong đó nêu rõ:
Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến mua sắm, đấu thầu, sản xuất, nhập khẩu thuốc, trang thiết bị y tế thuộc phạm vi quản lý nhằm xử lý nhanh nhất các vướng mắc, tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị thực hiện việc mua sắm, đấu thầu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan chuẩn bị việc đề xuất xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản về đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế; nghiên cứu, hướng dẫn kịp thời, kỹ lưỡng các đơn vị, địa phương thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế theo thẩm quyền. Bộ Tài chính khẩn trương phối hợp với Bộ Y tế trong việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản về quản lý, sử dụng tài sản công và sử dụng vốn nhà nước để mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế... Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các đơn vị mua sắm tập trung, các cơ sở y tế thuộc phạm vi quản lý thực hiện việc mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế theo thẩm quyền, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với thủ trưởng đơn vị để tránh xảy ra tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị y tế; tăng cường kiểm tra, giám sát, nâng cao năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong mua sắm.
Các cơ quan trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn có trách nhiệm đánh giá, kết luận theo quy định pháp luật và Nghị quyết này, hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị, địa phương, bảo vệ các tổ chức, cá nhân thực hiện công khai, minh bạch, không tiêu cực trong mua sắm, đấu thầu...
Đẩy mạnh học tập trong công nhân lao động tại doanh nghiệp
Chương trình “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong công nhân lao động tại các doanh nghiệp đến năm 2030” được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1268/QĐ-TTg, ngày 19/10/2022 đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, người sử dụng lao động và công nhân lao động về học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập trong nền kinh tế số, xã hội số thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông xã hội, hệ thống thông tin cơ sở, các cơ sở giáo dục và các phương thức khác...
Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước để hỗ trợ công nhân lao động được học tập, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp. Tham gia góp ý xây dựng các chương trình đào tạo bổ sung, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mới cho công nhân, người lao động tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Vận động các doanh nghiệp ưu tiên bố trí nguồn kinh phí cho việc khuyến khích học tập, nâng cao tay nghề; tạo điều kiện tốt nhất để hỗ trợ công nhân lao động được tham gia học tập suốt đời.
Cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học đa dạng hóa các hình thức học tập, phương thức học tập; đẩy mạnh đào tạo từ xa theo quy định của pháp luật về giáo dục và đào tạo để giúp công nhân lao động học tập, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật; xây dựng, khai thác, tích hợp, chia sẻ nguồn tài nguyên giáo dục mở, học liệu mở với các cơ sở giáo dục, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước...
Đẩy mạnh các cuộc vận động học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, ý thức pháp luật, kỹ năng sống trong công nhân lao động; xây dựng, duy trì thói quen đọc sách và tự học, ý thức học tập suốt đời phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân với thông điệp “Học tập suốt đời - cơ hội có việc làm bền vững”. Phát động thi đua học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp gắn với thi đua Lao động giỏi, Lao động sáng tạo trong công nhân lao động; tiếp tục triển khai phong trào ôn lý thuyết, luyện tay nghề, các cuộc thi thợ giỏi, “Bàn tay vàng”.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ sở giáo dục - đào tạo, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, các doanh nghiệp trong việc tổ chức cho công nhân lao động học tập kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng sống, những nội dung lý luận cơ bản về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam… Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức Công đoàn các nước để trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và tranh thủ nguồn lực để triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp, các hoạt động liên quan đến Chương trình.
Kinh phí thực hiện Chương trình gồm: Ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ theo khả năng cân đối và phân cấp ngân sách quy định tại Luật Ngân sách nhà nước; kinh phí từ tài chính công đoàn trên cơ sở cân đối các nguồn thu - chi của công đoàn các cấp (không bao gồm ngân sách nhà nước) và các nguồn huy động hợp pháp khác.
Giao và điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các bộ, địa phương
Quyết định số 1319/QĐ-TTg, ngày 04/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ giao, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các bộ, địa phương. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ giao danh mục, mức vốn ngân sách Trung ương bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 cho một số dự án thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và 03 địa phương: Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Phú Yên.
Điều chỉnh giảm kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 của các dự án đã được giao kế hoạch đầu tư công trung hạn, đồng thời điều chỉnh tăng kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho một số dự án trong nội bộ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Không đề xuất bổ sung vốn cho các dự án đã điều chỉnh giảm.
Về triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương (Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Phú Yên) căn cứ kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025, danh mục dự án và mức vốn ngân sách Trung ương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 được giao.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước đối với đầu tư công chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và cơ quan liên quan về tính chính xác của các nội dung, số liệu báo cáo, bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu báo cáo việc thông báo hoặc quyết định giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021 - 2025 cho các cơ quan, đơn vị sử dụng vốn đầu tư công về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính trước ngày 15/11/2022.
Thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư công, Nghị định số 40/2020/NĐ-CP, ngày 06/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công, nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ có liên quan.
BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY KHỐI DOANH NGHIỆP TRUNG ƯƠNG