Người "quyết đoán"
Trong những tài liệu lưu giữ và cả trong các câu chuyện hàng ngày của những cán bộ, nhân viên ngành Dầu khí, cái tên Nguyễn Ngọc Cư được nhắc đến với mật độ dày đặc.

Ông là một trong những người đầu tiên gắn bó với ngành, là một trong những bậc "công thần” được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chọn đưa vào sách "Những người đi tìm lửa” những tập đầu, nhưng vì nhiều lý do nên kế hoạch chưa thực hiện được. Đến nay, khi ông đã mất, chúng tôi mới có điều kiện để thực hiện.

… Vào những năm đầu của thập niêm 60 thế kỷ trước, Nguyễn Ngọc Cư là một trong những cán bộ đầu tiên được giao nhiệm vụ thăm dò, khai thác dầu khí vùng trũng sông Hồng. Ông say mê cùng với những chuyên gia Liên Xô ngày đêm bám sát thực địa. Từ một nhân viên kỹ thuật, trải qua nhiều cương vị công tác, Nguyễn Ngọc Cư đã trưởng thành trở thành một chuyên gia hàng đầu của ngành Địa chất Dầu khí Việt Nam. Năm 1983 ông được giao chức Giám đốc Công ty Dầu khí I, đơn vị lớn nhất của Tổng cục Dầu khí Việt Nam.

Những năm mới giải phóng, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế. Nghành Dầu khí Việt Nam cũng phải chịu những hệ lụy khốn khó. Phần lớn máy móc thiết bị được nhập từ Liên Xô từ những năm 70 đã xuống cấp, không có phụ tùng thay thế. Trong khi đó, nhiệm vụ bức thiết mà Nhà nước giao cho Công ty Dầu khí I là phải bằng mọi cách xác định trữ lượng mỏ khí của cấu tạo T.HC (mỏ Tiền Hải, Thái Bình).

Bằng sự quyết đoán, dám nhìn thẳng vào những khâu yếu điểm yếu để tìm ra biện pháp khắc phục; bằng thái độ dũng cảm dám nghĩ dám làm; bằng tình cảm gắn bó keo sơn, đồng cam cộng khổ giữa lãnh đạo với anh chị em công nhân Công ty Dầu khí I mà Nguyễn Ngọc Cư làm Giám đốc đã có những thành công vang dội. Mỏ khí T.HC trước đó dự báo chỉ 1 triệu m3, qua thời gian thăm dò thực tế đã được khẳng định trữ lượng lớn hơn rất nhiều lần. Đứng trước đòi hỏi cấp bách của nền kinh tế nước nhà, nhiệm vụ đặt ra là phải nhanh chóng khai thác mỏ khí T.HC phục vụ phát triển xã hội. Đây là một việc làm rất mới, ta chưa có kinh nghiệm nên trong lãnh đạo công ty đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau về thiết kế. Có ý kiến đề xuất phải mời chuyên gia Liên Xô sang. Nhưng với tinh thần tự tin của một người nắm vững khoa học kỹ thuật, bằng thái độ cương quyết, Giám đốc Nguyễn Ngọc Cư đã chọn phương án tự lực.

Bằng việc tận dụng các thiết bị hiện có và gia công thêm các chi tiết cần thiết, bằng con tim và khối óc của những cán bộ địa chất dầu khí Việt Nam. Trạm khai thác khí đầu tiên của ngành công nghiệp Dầu khí đã ra đời. Trạm đã cung cấp khí cho hai trạm turbine điện, đảm bảo vận hành an toàn thông suốt nhiều năm liền. Trạm khai thác khí trở thành mô hình tham gia Triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân và đoạt Huy chương Vàng năm. Đây có lẽ là thành công lớn nhất của công ty tính đến thời điểm đó. Thành công được xây lên từ bao nhiêu vất vả gian lao, bằng cả niềm vui lớn.

Khi kế hoạch thăm dò, khai thác dầu khí khu vực biển phía Nam đã được chọn. Một tổ chức liên doanh dầu khí ra đời là kết quả của hiệp định hợp tác giữa hai Nhà nước Việt Nam – Liên Xô mang tên Công ty Dầu khí Việt – Xô (Vietsovpetro). Một bộ máy lãnh đạo công ty được thành lập theo cơ cấu nhân sự phối hợp hai bên. Phía bạn với bề dày kinh nghiệm và khoa học kỹ thuật về khai thác dầu khí trên biển nắm chức Tổng giám đốc. Phía ta, phải tìm được một người có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm lãnh đạo, có bản lĩnh và tinh thần quyết đoán để có thể đối thoại bình đẳng với chuyên gia Liên Xô làm Phó tổng giám đốc thứ nhất. Và người được chọn chính là Nguyễn Ngọc Cư. Và đến tháng 3/1993, khi Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí chính thức được thành lập, có nhiệm vụ trực tiếp triển khai các đề án thăm dò, khai thác dầu khí trong nước và nước ngoài gồm cả các đề án liên doanh liên kết và đề án tự lực, thì Nguyễn Ngọc Cư được tín nhiệm giao chức Giám đốc.

Và tổ chức đã đúng. Ông Phó tổng giám đốc Vietsovpetro kiêm Giám đốc Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí Nguyễn Ngọc Cư đã chứng tỏ được năng lực và phẩm chất của một cán bộ hàng đầu của ngành Dầu khí Việt Nam. Ngay từ năm 1993, mặc dù công ty mới được thành lập, cán bộ được bổ sung từ các nơi về, song ông đã nhanh chóng ổn định tổ chức, tạo mối quan hệ gắn bó trong công tác, cùng với tập thể lãnh đạo và CBCNV công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đó là tiến hành khoan thẩm lượng và khai thác của Dự án Đại Hùng và tiến hành hai dự án tự lực là NOPEC và TC-93. Thành công bước đầu làm nức lòng CBCNV công ty.

Năm 1994 là năm hoạt động rất sôi nổi của Công ty PVEP. Cùng với Ban Lãnh đạo, Nguyễn Ngọc Cư đã bám sát, điều hành các hoạt động của công ty với các nhà thầu, tiến hành các hoạt động thăm dò khai thác trên các Dự án Đại Hùng, Thanh Long và PV-94, đưa mỏ Đại Hùng vào khai thác đúng thời hạn. Đặc biệt đã tiến hành khoan giếng PV-94-2x đúng kế hoạch và chiều sâu thiết kế, hoàn thành việc thi công giếng tự lực đầu tiên trong điều kiện địa chất mới mẻ và trong vùng biển có nhiều biến động phức tạp. Ngoài ra còn giải quyết nhiều vấn đề kinh tế kỹ thuật, tiết kiệm được hàng chục triệu USD. Mức thu nhập của CBCNV đạt 109% so với năm 1993.

Năm 1995, Công ty PVEP được Tổng Công ty giao cho khối lượng công việc lớn hơn nhiều so với những năm trước, đồng thời cũng là năm gặp nhiều khó khăn thử thách, đặc biệt là các diễn biến phức tạp của Dự án Đại Hùng. Song, với tinh thần không chịu lùi trước khó khăn thử thách, Nguyễn Ngọc Cư đã dồn hết tâm huyết cùng với Ban Lãnh đạo công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bằng sức lực và trí tuệ của mình, công ty đã đã tiến hành tính trữ lượng mỏ Đại Hùng làm cơ sở để Tổng Công ty và Nhà nước có quyết sách đối với nhà thầu, qua đó nhà thầu BHP không thể đơn phương quyết định quá trình hoạt động của mỏ; duy trì sản lượng khai thác và từng bước đấu tranh với nhà thầu BHP bảo vệ quyền lợi của phía Việt Nam. Ngoài Dự án Đại Hùng và Thanh Long, năm 1995 Công ty PVEP còn hoàn thành tốt một số dự án tự lực và liên doanh như Dự án PV-95, Vịnh Bắc bộ (BB-95), Dự án SEAS-95, PM-3 và các đề tài nghiên cứu phục vụ sản xuất, tính trữ lượng dầu mỏ…

Năm 1996, nhiệm vụ của công ty được phát triển đa dạng và phức tạp hơn, là giai đoạn chuẩn bị cho việc đưa một số mỏ vào khai thác và là năm thứ ba khai thác mỏ Đại Hùng. Song nhà thầu BHP đưa ra nhiều lý do đòi đóng mỏ và xét lại các điều khoản của Hợp đồng PSC. Được sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Tổng Công ty, Công ty PVEP đã tập trung trí tuệ, chuẩn bị đầy đủ tài liệu dẫn chứng, kiên quyết đấu tranh buộc nhà thầu phải duy trì hoạt động khai thác mỏ, đảm bảo kế hoạch khai thác 0,6 triệu tấn dầu. Công ty hoàn thành tốt mọi kế hoạch được giao thuộc 3 dự án khác và 2 dự án tự lực, đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của CBCNV, mức thu nhập đạt 138% so với năm 1995.

Năm 1997 là năm tập trung vào việc triển khai các đề án chuyển sang giai đoạn khai thác và phát triển mỏ, gồm có mỏ Đại Hùng (Lô 05.1a), PM-3, Rạng Đông (15.2), Ruby (01&02), Hải Thạch (05.2). Trên cương vị Giám đốc, Nguyễn Ngọc Cư đã lãnh đạo công ty hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, tiếp tục nghiên cứu biện pháp kỹ thuật cùng nhà thầu duy trì sản lượng khai thác dầu mỏ Đại Hùng và PM-3 đạt 0,675 triệu tấn dầu đạt 112,5% kế hoạch; triển khai tốt việc thiết kế, sản xuất các giàn khai thác để năm 1998 đạt 1,6 triệu tấn dầu…

Những thành tích xuất sắc của Công ty Thăm dò và Khai thác Dầu khí đã góp phần to lớn vào thành công chung của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Trong một thời gian ngắn, Liên doanh Dầu khí Việt – Xô, mặc dù là một mô hình tổ chức sản xuất mới và đặc biệt, nhưng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị do hai Đảng, hai Nhà nước giao cho. Là Phó tổng giám đốc thứ nhất, với kiến thức học tập từ nước bạn, với kinh nghiệm quản lý nhiều năm, Nguyễn Ngọc Cư đã vận dụng một cách linh hoạt để có một phương pháp quản lý tiên tiến, đảm bảo sản xuất và phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế cao, hạn chế được các lãng phí.

Có thể nói, ông Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã biết tập hợp quanh mình một đội ngũ những người có tài để cùng mình gánh vác sự nghiệp chung.

Bà Nguyễn Thị Ngọc Bích, vợ ông Cư nhớ lại: Có ai như ông nhà tôi không. Làm tới chức Phó tổng giám đốc một tổng công ty lớn mà không bao giờ nhận một gói thuốc lá biếu. Ông không nghĩ đến cái gì riêng cho bản thân mình. Đến việc thiết yếu nhất là lo một cái nhà cho vợ con ở mà ông ấy cũng ngại ngần. Ông bảo cứ yên tâm. Sau này Tổng Công ty ăn nên làm ra thì lo gì không có nhà có cửa. Vậy là mấy mẹ con tôi phải “tha” nhau đi ở nhờ nhà bạn bè tới 10 năm suốt trong Nam ngoài Bắc. Mãi đến năm 1995 ông mới được Tổng Công ty phân cho một căn hộ cấp 4 tuềnh toàng. Thế mà ông cười ha hả bảo thế là tốt lắm rồi…

Trong giọng kể của người phụ nữ đã tuổi thất tuần có pha chút ngậm ngùi, tủi phận, nhưng không giấu được vẻ yêu thương, cảm phục, kính trọng và tự hào về chồng, đồng thời cũng là tự hào về mình. Niềm tự hào thật chính đáng bởi trong suốt mấy chục năm làm bạn đời của nhau, bà đã cùng ông chia ngọt xẻ bùi, hy sinh những nhu cầu thường tình, tự nguyện lui về phía sau làm một điểm tựa vững chãi cho chồng yên tâm cống hiến. Hạnh phúc lớn nhất của bà cho đến giờ là đã giữ đúng được đạo nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt qua bao nhiêu sóng gió thăng trầm.

Hai người con của ông bà được hưởng tình yêu thương và nếp giáo dục nghiêm khắc của cha mẹ nay đều đã trưởng thành. Người con trai tên Nguyễn Ngọc Liên, người con gái tên Nguyễn Thị Việt Nga – hai cái tên được ông bà đặt để ghi nhớ tình cảm của ông bà với Liên bang Xôviết trước kia và Liên bang Nga sau này, nơi mà cả hai ông bà đều đã đến học tập và mang về một hành trang quý giá phục vụ cho ngành Dầu khí nước nhà. Người con trai của ông bà có bản tính khí khái giống bố đã từ chối tất cả những ưu tiên, tự mình học tập giỏi để đủ điểm đi du học ở Bacu (Liên Xô trước đây), cũng đúng ngành mà mẹ cha đã học. Anh hiện làm Giám đốc Công ty Xăng dầu Dầu khí miền Đông. Còn cô con gái thì học Đại học Kinh tế TP HCM, hiện làm ở Công ty Khai thác mỏ dầu Hoàng Long.

- Ông ấy nhà tôi hồi còn đi làm thường bảo, đời tôi và bà khi làm việc thì nghèo, nhưng chúng mình có một khối “động sản” rất lớn đó là hai đứa con đấy! – Bà Ngọc cười rất vui khi nói về con mình.

Đây không phải là câu nói thuần nghĩa về giá trị con cái, mà là dự báo chính xác về tương lai sán lạn của ngành Dầu khí nước nhà. “Nước nổi lo chi bèo chẳng nổi”, ông Phó tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Cư đã đặt trọn niềm tin vào lý tưởng mà mình phụng sự. Và ông đã mãn nguyện. Khi ngành công nghiệp Dầu khí Việt Nam phát triển rực rỡ, đóng góp to lớn vào nền kinh tế nước nhà thì Nguyễn Ngọc Cư đến tuổi nghỉ hưu. Ông vui vẻ trở về nói với vợ rằng: “Vậy là đời tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với đất nước. Bây giờ tôi sẽ về phục vụ vợ con!”. Bà trách yêu ông: “Suốt thời trai trẻ thì cứ mải mê công việc. Giờ có thể hưởng thụ thì tuổi đã già rồi ông ơi!”. Ông cười bảo: “Còn khối thứ để hưởng thụ đấy bà ạ. Hằng ngày tôi và bà sẽ đi đánh bóng bàn với nhau nhé!”.

Nhưng niềm vui giản dị ấy của ông đã không thực hiện được. Những gian truân vất vả của những tháng năm nơi đầu sóng ngọn gió đã ngấm vào người ông bắt đầu bùng phát thành một căn bệnh nặng khiến ông không thể vận động được nữa. Và ngày 29/11/2007, người cán bộ lão thành của ngành Dầu khí Việt Nam đã trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh, để lại niềm thương tiếc khôn nguôi cho gia đình và bè bạn, đồng nghiệp. Xin được lấy một đoạn thơ của ông Nguyễn Quang Hạp, người bạn học, người đồng chí đọc viếng ông thay cho lời kết của bài viết này:

"Cư ấp ủ biết bao nhiêu kỳ vọng

Khám phá thiên nhiên khai thác mỏ dầu

Đội ngũ đại ngàn, Cư vẫn ở tốp đầu

Làm danh giá cho quê hương, đất nước…”.


Đỗ Tiến

* Bài khai thác tư liệu