Lưu vực Permian
Lời giới thiệu: Lưu vực Permian là một lưu vực trầm tích lớn nằm ở phía tây nam Hoa Kỳ, chiếm phần lãnh thổ chạy từ phía tây tiểu bang Texas đến phía đông nam tiểu bang New Mexico, trong đó bao gồm hơn 86.000 dặm vuông diện tích bề mặt và được chia thành ba tiểu lưu vực chính: Midland (lớn nhất), Central (lớn thứ ba) và Delaware (lớn thứ hai) với cấu tạo phức tạp về mặt địa chất vì nó chứa nhiều tiểu lưu vực độc đáo với những đặc điểm riêng biệt (Permian Basin-Maps). Lưu vực Permian là một trung tâm sản xuất dầu, khí đá phiến ở Hoa Kỳ, với giếng dầu đầu tiên được khoan (1921), và đã đạt tới mức đỉnh sản xuất dầu khí đá phiến vào những năm 1970 khi các công ty dầu mỏ lớn bỏ rơi nó và tuyên bố lưu vực này đã trưởng thành với khả năng sản xuất dầu trong tương lai còn hạn chế. Theo dữ liệu lịch sử cho thấy hơn ba mươi tỷ thùng dầu thô đã được khai thác từ Lưu vực Permian (Permian Basin-Guide). Mặc dù Lưu vực Permian đang ở giai đoạn chín muồi của hoạt động thăm dò và phát triển dầu khí nhờ phát minh ra công nghệ thủy lực cắt phá (fracking) hiện đại được sử dụng để khai thác dầu khí đá phiến vào những năm 1990, với dự báo của các chuyên gia hiện vẫn còn ít nhất 20 tỷ thùng dầu dữ trữ trong lưu vực này (Permian Basin-Guide).
Tuy không phải người phát minh ra công nghệ fracking hiện đại song ông George Mitchell (1919-2013), được mệnh danh là cha đẻ của fracking bởi vì ông đã dành nhiều năm thử nghiệm các nguyên tố khác nhau như nước, cát và hóa chất cùng với áp suất. Fracking đã được thử nghiệm vào cuối những năm 1940 với sự giúp đỡ của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ từ những năm 1970 (Gertner, 2013). Kết hợp với khoan xiên ngang, fracking giúp thu được dầu và khí bị giữ lại từ thành đá phiến và các dạng đá chặt không thấm khác bằng cách bơm chất lỏng với áp suất, quá trình này mở ra các vết nứt và cho phép dầu và khí chảy vào lỗ khoan.
Lưu vực Permian
Lưu vực Permian được đặt tên theo thời kỳ địa chất Permian (từ 251 triệu năm đến 291 triệu năm trước), với kích thước khoảng 260 dặm x 300 dặm và trải dài suốt 52 hạt ở Tây tiểu bang Texas và Đông Nam tiểu bang New Mexico (Ball). Ở phía nam, Lưu vực Permian được bao bọc bởi Vành đai Marathon-Ouachita Fold Belt, ở phía tây (Lưu vực Pedregosa), ở phía bắc (Pedernal uplift & Roosevelt positive và Palo Duro Basin), và ở phía đông (Bend Arch và Forth Worth Basin).
Lưu vực Permian được hình thành do sự dịch chuyển của các mảng kiến tạo địa chất dưới lòng Trái đất từ 1,3 tỷ năm đến 850 triệu năm trước, phần lớn được bao phủ bởi nước và các vật liệu hữu cơ phong phú tích tụ qua hàng triệu năm, tạo nên một trong những cấu trúc hydrocarbon dày nhất trên thế giới song phần còn lại của các rạn san hô vẫn còn được nhìn thấy (USGS, 2022). Thành hệ địa chất chứa dầu và khí đốt được đặt tên là đá phiến Wolfcamp, chủ yếu chứa đá phiến sét giàu hữu cơ và carbonates sét được tìm thấy ở rìa lưu vực và được tìm thấy ở cả ba tiểu lưu vực chính trên của Lưu vực Permian. Đá phiến Wolfcamp được chia thành bốn hợp phần được gọi là Wolfcamp A, B, C và D với độ dày khác nhau. Thành hệ địa chất đá phiến Wolfcamp dày hơn 900 feet và có lượng carbon hữu cơ dồi dào, lớp mỏng dễ thấm và các đặc tính cơ chế đá thuận lợi với tính chất cơ học của đá chủ yếu bao gồm modulus đàn hồi, tỷ số poisson và cường độ của đá.
Thành hệ địa chất có độ xốp khác nhau từ 2% đến 12%, trung bình là 6%. Do độ thấm trung bình thấp tới 10 milidarcies nên cần phải sử dụng fracking để khai thác dầu khí (Lưu vực Permian, Phần 2, 2022). Một milidarcy bằng một nghìn darcy và là đơn vị đo độ thấm điển hình. Độ thấm là thước đo khả năng vận chuyển chất lỏng của thành hệ địa chất qua các lỗ rỗng và các vết nứt.
Tiểu lưu vực Delaware nằm ở phần phía tây của Lưu vực Permian, chiếm diện tích 6,4 triệu mẫu Anh và có diện tích 13.000 dặm vuông và là tiểu lưu vực sâu nhất, có cấu trúc đá dạng đặc dày. Lớp mục tiêu chính của hoạt động thăm dò khai thác dầu khí là Wolfcamp song đối với hoạt động khoan xiên ngang và fracking, trọng tâm đã chuyển sang thành hệ địa chất Bone Springs nằm ngay dưới thành hệ địa chất Delaware Group và phía trên thành hệ địa chất Wolfcamp.
Tiểu lưu vực Midland nằm ở phần phía đông của Lưu vực Permian, trải rộng trên 14.000 dặm vuông song lưu vực này nằm nông hơn so với tiểu lưu vực Delaware. Trước đây, giếng khoan thẳng đứng chiếm phần lớn sản lượng dầu khí đá phiến song kể từ năm 2012, kỹ thuật khoan xiên ngang bằng fracking đã được sử dụng chủ yếu để nhắm tới thành hệ địa chất Wolfcamp.
Tiểu lưu vực Central thì nằm ở khu vực giữa Lưu vực Permian, và được coi là nơi giàu nguồn dầu khí nhất song lưu vực này lại hiện có diện tích nhỏ nhất chỉ là 6.400 dặm vuông. Mục tiêu phát triển chính là thành hệ địa chất San Andres, Clear Fork, Tubb, Devonian và Grayburg. Trong lịch sử, khu vực này thu được lợi nhuận ổn định và được biết đến là khu vực có độ rủi ro thấp. Dựa trên dữ liệu lịch sử, gần 45% sản lượng dầu và khí đốt được sản xuất ở Lưu vực Permian là đến từ tiểu lưu vực này. Các nhà khai thác dầu khí đá phiến hiện sử dụng kỹ thuật khoan xiên ngang fracking để gia tăng sản lượng dầu và khí đốt ở khu vực này (Permian Basin-Guide).
Nứt vỡ thuỷ lực (fracking)
Hiện có hai loại khoan dầu khí đá phiến chính là thủy lực cắt phá thông thường và khối lượng lớn ở Lưu vực Permian. Kỹ thuật khoan thông thường liên quan đến việc khoan vào các túi dầu khí và chiết xuất hydrocarbon với một số kích thích có thể. Hiện phương pháp fracking khối lượng lớn bằng kỹ thuật khoan xiên ngang, bao gồm việc bơm chất lỏng vào lòng đất với áp suất cao để phá vỡ thành đá phiến và tạo ra tính thấm nhân tạo.
Fracking là một công nghệ hoàn thiện đã được sử dụng từ cuối năm 1940. Fracking được sử dụng trong các hồ bể chứa có độ thấm thấp và trung bình (cát chặt, đá phiến sét và sự hình thành khí methane trong lớp than đá) với tỷ lệ sản xuất thương mại thấp hơn. Hiện các thiết bị hạng nặng như máy bơm gắn trên xe tải, máy trộn, bình chứa chất lỏng và bình chứa proppant được sử dụng để xử lý giếng dầu và khí đá phiến. Ví dụ như fracking lần đầu tiên được sử dụng tại mỏ giếng Hugoton Field ở tây nam tiểu bang Kansas (1947) để khai thác khí tự nhiên từ thành đá vôi (Barati, 2014). Theo đánh giá, nếu sử dụng kỹ thuật fracking, sản lượng dầu tăng 75% và khí đốt tăng trung bình 39% (Fracking).
Việc triển khai công nghệ fracking trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên được gọi là giai đoạn pad (đệm) bao gồm nước trơn không có vật liệu proppant: Giai đoạn đệm nước trơn lấp đầy giếng bằng dung dịch nước trơn. Ở giai đoạn này, dung dịch cắt phá fracking (từ 3 triệu đến 5 triệu gallon) được bơm dưới áp lực mạnh vào giếng để phá vỡ thành hệ địa chất và tạo thành một lớp đệm có kích thước phù hợp. Tại mỏ khí tự nhiên Hugoton, chất cháy napalm làm từ xăng được sử dụng làm fracking chất lỏng. Do những quan ngại về môi trường và an toàn nên fracking chất lỏng gốc nước ngày nay được sử dụng nhiều hơn (Barati, 2014). Giai đoạn thứ hai được gọi là giai đoạn bùn. Trong giai đoạn này, fracking chất lỏng được trộn với các chất proppants (cát chặt, hạt gốm hoặc bauxite thiêu kết được tạo ra bằng cách thiêu kết quặng bauxite mịn) trong máy xay trộn và được bơm vào lớp đệm. Quá trình này xảy ra nhằm mục đích tạo ra các vết nứt mới, gia tăng và mở rộng kích thước hiện có của các vết nứt và giữ cho các vết nứt mở do các chất đẩy proppants thu thập và chiết xuất dầu và khí bị giữ lại (Boyun, 2007).
Công nghệ fracking đã thay đổi đáng kể trong vài thập kỷ qua do kỹ thuật khoan xiên ngang (lần đầu tiên được sử dụng ở Texon, tiểu bang Texas, 1929) trong các trữ lượng phi truyền thống và là nguyên nhân khiến sản lượng dầu khí tăng vọt ở Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, nhiều phương pháp hoàn thiện theo chiều ngang khác nhau đã được sử dụng, ví dụ như kỹ thuật hydro-jet là dây bẻ gãy hydrojet không kéo dây cho giếng ngang trong mỏ khí bao gồm chủ yếu là vòi phun ống trượt, ống làm việc ống trượt, hệ thống nhiều tầng lỗ mở, kỹ thuật plug and perf là ứng dụng phổ biến nhất được sử dụng trong các giếng hoàn thiện hoặc giếng xiên ngang yêu cầu fracking nhiều tầng. Sau khi giếng xiên ngang được khoan, bọc vỏ, tráng xi-măng và cách ly sẽ cần hai lần chạy ống cuộn (Wu và cộng sự, 2022). Mỗi kỹ thuật khoan có thể tăng cường kích thích hồ bể chứa, nâng cao sản xuất và cải thiện giá trị kinh tế; tuy nhiên, mỗi kỹ thuật đều có ưu nhược điểm khác nhau. Hoạt động fracking thì rất ồn ào và cần một lượng nước đáng kể (hàng triệu gallon) và kỹ thuật fracking cũng đòi hỏi rất nhiều vật liệu và nhân lực. Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ đã từng chỉ ra động đất xảy ra có thể là kết quả của sự gia tăng hoạt động fracking này.
Sự phát triển sản xuất dầu khí đá phiến ở Lưu vực Permian
Lưu vực Permian có lịch sử lâu đời về dầu khí, đạt đỉnh sản lượng (1973). Vào thời điểm đó, Lưu vực Permian sản xuất gần 2 triệu thùng dầu và 10 tỷ feet khối khí tự nhiên mỗi ngày. Trong thời kỳ đỉnh cao, Lưu vực Permian cũng đã chiếm hơn 20% nguồn cung dầu của Hoa Kỳ và 15% nguồn cung khí đốt toàn quốc.
Tuy nhiên, trước đó, Lưu vực Permian có sự khởi đầu không mấy hứa hẹn khi mà W.H. Abrams khoan giếng dầu đầu tiên (1920) và chỉ khai thác được 10 thùng dầu mỗi ngày. Santa Rita số 1, nơi xảy ra vụ nổ dầu (5/1923), gần hai năm sau giếng khoan đầu tiên, là giếng đầy hứa hẹn đầu tiên. Giếng thứ hai được sản xuất trong gần 70 năm trước khi đóng cửa vào năm 1990 (Energy).
Vào giữa những năm 2000, sản lượng dầu khí ở Lưu vực Permian giảm đáng kể so với mức đỉnh (hơn 60%), chủ yếu do các giếng thẳng đứng ngừng sản xuất. Do ứng dụng kỹ thuật khoan xiên ngang và fracking, sản lượng dầu khí của Lưu vực Permian lại đã gia tăng đáng kể (Energy), và theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ (2021), trong số 12,23 triệu thùng dầu được sản xuất hàng ngày tại Hoa Kỳ (2019) thì có tới 5,07 triệu thùng dầu (41%) đến từ tiểu bang Texas, nơi sản xuất chủ yếu được thúc đẩy bởi Lưu vực Permian.
Giếng ngang ban đầu được khoan theo chiều dọc song dần dần được uốn cong theo hướng nằm ngang với độ nghiêng khoảng 80 độ để cải thiện hiệu suất hồ bể chứa. Sau khi đạt được hướng ngang thích hợp, quá trình khoan tiếp tục theo hướng ngang thích hợp này. Hồ bể chứa có thể khá hẹp song có thể sâu tới 15.000 feet bên dưới các khu dân cư và thành phố. Một công ty dầu khí có thể khoan một giếng từ một địa điểm giếng, do đó sẽ có ít địa điểm giếng hơn. Năm 2021, có tới 25% các lớp đệm ở các tiểu lưu vực Midland và Delaware có ít nhất chín giếng khác nhau. Tháng 6/2021, các giếng ngang chiếm 84% tổng số giếng đang khai thác sản xuất ở tiểu lưu vực Delaware và 86% ở tiểu lưu vực Midland (Corporate Finance Institute Team, 2022).
Nguồn tài nguyên dầu khí chưa được khám phá ở Lưu vực Permian
Năm 2016, Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ (USGS) đã thực hiện một nghiên cứu địa chất hoàn chỉnh về trữ lượng có thể phục hồi về mặt kỹ thuật từ thành hệ địa chất đá phiến Wolfcamp (A, B, C và D) ở tiểu lưu vực Midland mà trước đây thành hệ này được sử dụng để khoan thẳng đứng với fracking với kết quả ghi nhận, có hơn 3.000 giếng đã được khoan và hoàn thiện. USGS đánh giá trữ lượng trung bình tài nguyên khí đốt là 19,948 triệu thùng dầu (MMBO), với 95% khả năng tài nguyên dầu đạt ít nhất 11.430 MMBO và 5% khả năng tài nguyên dầu đạt 31.468 MMBO. Đồng thời cũng ước tính trữ lượng trung bình của tài nguyên khí đốt là 15.958 tỷ feet khối (BCFG), với phạm vi F95 và phạm vi F5 nằm trong khoảng từ 7.887 BCFG đến 27.310 BCFG (Geological Survey, 2016).
Ngoài ra, USGS đã đánh giá các nguồn tài nguyên dầu khí liên tục chưa được khám phá ở tiểu lưu vực Delaware (2018), tập trung vào thành hệ địa chất đá phiến Pennsylvanian Permian Wolfcamp và sự hình thành thành hệ địa chất Permian Bone Spring trước đó. Hiện cả hai thành hệ địa chất đều được chia thành các đơn vị địa tầng dựa trên nơi tập kết các cột ống chống của giếng ngang dùng để tạo đường cho dung dịch khoan lưu thông trong giếng, nâng đỡ các thiết bị chống phun và các ống chống khác, ngăn ngừa sự sụt lở giếng, sự dính kết của cột ống chống khoan, sự ô nhiễm các vỉa chứa nước ngọt và tạo lối thoát lên các chất lỏng khai thác.
Thành hệ địa chất đá phiến Wolfcamp được chia thành sáu thành hệ Bone Spring, tập trung vào năm đơn vị tài sản đánh giá liên tục. USGS đánh giá nguồn tài nguyên khí đốt trung bình ở tiểu lưu vực Delaware là 46.271 MMBO, với các phạm vi F95 và F5 dao động từ 26.729 MMBO đến 71.075 MMBO, trong khi đó, ước tính trữ lượng dầu trung bình ở Lưu vực Delaware có mức cao hơn là 26.323 MMBO so với trữ lượng khí đốt ở Lưu vực Midland. Lượng khí đốt dự trữ trung bình được đánh giá (280.630 BCFG) cao hơn đáng kể ở tiểu lưu vực Delaware, với các phạm vi F95 và F5 nằm trong khoảng từ 108.583 BCFG đến 490.074 BCFG (Geological Survey, 2018). Tất cả các đánh giá do USGS chuẩn bị cho thấy Lưu vực Permian có trữ lượng dầu khí khổng lồ tiềm năng và trữ lượng chung của Hoa Kỳ cao hơn nhiều so với ước tính trước đây (ước tính được thực hiện vào năm 2017 về tổng trữ lượng dầu của Hoa Kỳ là 40 tỷ thùng-Bb và trữ lượng khí đốt tự nhiên là 465 nghìn tỷ feet khối-Tcf) (Hess, 2018).
Sản lượng khai thác dầu khí hiện tại ở Lưu vực Permian
Hiện sản lượng dầu khí được khai tác sản xuất ở Lưu vực Permian bắt đầu tăng vào năm 2010 sau nhiều năm suy giảm trước đó bởi nguyên do là trữ lượng dầu khí cao bị mắc kẹt trong thành đá phiến sét có độ thấm thấp nên hiện có thể tiếp cận được bằng khoan xiên ngang và fracking. Điều cũng đáng khích lệ là các đánh giá trữ lượng của USGS cho thấy trữ lượng dầu khí lớn ở Lưu vực Permian (Energy).
Hiện tại, sản lượng dầu ở Lưu vực Permian đã không ngừng tăng lên mà một trong những nguyên nhân là giá dầu vọt tăng cao, lên tới hơn 120 USD/thùng dầu khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi sau đại dịch COVID-19 và cuộc xung đột CHLB Nga-Ukraine diễn ra từ tháng 2/2022 đã khiến cho nhu cầu dầu khí giảm trước đó. Một lý do khác nữa là điểm hòa vốn trên mỗi thùng dầu đạt thấp. Dựa trên phân tích được thực hiện trên 26 nhà khai thác ở Lưu vực Permian, điểm hòa vốn thay đổi từ 21 USD mỗi thùng dầu cho đến 48 USD mỗi thùng dầu, với chiều dài giếng là từ 7.500 feet đến 10.500 feet. Hiện các nhà khai thác dầu khí có điểm hòa vốn thấp nhất (dưới 26 USD/thùng dầu), đó là các công ty EOG Resources, XTO Energy, Pioneer Natural Resources, Concho Resources và hãng Chevron (Businessam).
Tháng 3/2022, sản lượng dầu đá phiến của Lưu vực Permian đạt gần 5 triệu thùng dầu mỗi ngày, chiếm 42,8% tổng sản lượng dầu của cả Hoa Kỳ. Sản lượng dầu này đã tăng mạnh hơn so với sản lượng dầu năm 2013 khi mà Lưu vực Permian chỉ chiếm có 18,1% tổng sản lượng dầu toàn quốc với kỷ lục mới đạt được với 5,2 triệu thùng dầu mỗi ngày (6/2022). Do giá dầu neo ở mức cao và được dự báo sẽ tiếp tục tăng cao, nên sản lượng dầu ở Lưu vực Permian, đặc biệt là ở tiểu lưu vực Delaware, cũng sẽ tiếp tục tăng. Điều đó cũng sẽ giúp thúc đẩy đầu tư vào khu vực này, dự kiến sẽ tăng tới 40% so với năm 2021, và dự báo đạt ở mức 25,7 tỷ USD (2022), chủ yếu bởi các hãng dầu khí lớn như ExxonMobil, Chevron, BP và Conoco Philips (Hedden).
Tương tự giống như sản xuất dầu, sản lượng khí đá phiến đã tăng đáng kể kể từ năm 2011 (tăng hơn 350% kể từ năm 2011). Tháng 3/2022, sản lượng khí đá phiến của Lưu vực Permian đạt 19,8 tỷ feet khối mỗi ngày, chiếm gần 17% tổng sản lượng khí đốt của Hoa Kỳ.
Một trong những chỉ số ban đầu về dầu khí tương lai của sản xuất dầu khí là số lượng giàn khoan đang hoạt động. Theo báo cáo của Baker Hughes, số lượng giàn khoan tại Lưu vực Permian liên tục tăng kể từ tháng 7/2020, khi nó ở mức thấp nhất (124 giàn khoan) trong 5 năm qua. Trong tháng 7/2022 số giàn khoan đang hoạt động là 350 chiếc, tức là số lượng giàn khoan tăng 226 giàn so với tháng 7/2020. Mức tăng đáng kể nhất là ở các hạt Lea (+36 giàn), Midland (+25 giàn) và Eddy (+ 24 giàn khoan).
Hiện các hạt Lea và Eddy thì đều nằm trong tiểu lưu vực Delaware, nơi có trữ lượng dầu khí đáng kể nhất dựa trên đánh giá của USGS. Năm 2021, các công ty dầu khí lớn ở tiểu lưu vực Delaware là công ty EOG Resources với 276 giếng được khoan, Davon Energy Corporation (215 giếng) và Mewbourne Oil Company (190 giếng) (Phinds, 2021). Hạt Midland nằm trong phạm vi của tiểu lưu vực Midland cũng được đánh giá có tiềm năng dầu khí lớn với các nhà điều hành dầu khí hàng đầu tại khu vực là Pioneer Natural Resources Company, EOG Resources và Công ty ConocoPhillips (Phinds, 2021).
Hiện các giếng định hướng là những giếng dầu có lỗ khoan lệch khỏi đường thẳng đứng hoạt động hầu như không có sự hiện diện ở Lưu vực Permian và chủ yếu là toàn các giếng thẳng đứng được sử dụng để sản xuất dầu khí. Tuy nhiên, tháng 12/2013 là lần đầu tiên số giếng khoan xiên ngang đang vận hành đã vượt qua số giếng khoan đứng. Kể từ đó, số lượng giếng thẳng đứng đang hoạt động đã giảm hàng năm, chỉ chiếm 5% tổng số giếng khoan đang hoạt động ở Lưu vực Permian.
Các vấn đề môi trường của fracking
Với việc sử dụng fracking ngày càng tăng, vốn gây tác động mạnh hơn đến môi trường bởi do nó sử dụng áp lực lớn, nước, cát và hóa chất để khai thác dầu khí, nhiều người đã bắt đầu kiến nghị phản đối fracking khi cho rằng, khí khai thác từ đá phiến có thể tác động đáng kể đến môi trường, mặc dù nó sạch hơn than đá. Vấn đề mà các đối thủ đang nhấn mạnh là để lấy khí ra khỏi đá phiến, người vận hành giếng cần ép dưới áp lực trung bình 20 triệu lít nước, kết hợp với cát và các vật liệu khác, 200.000 lít axids, chất diệt khuẩn, chất ức chế cáu cặn, các bộ giảm ma sát nhằm mục đích giúp làm cho chất lỏng bị nứt thủy lực trở nên trơn hơn và chất hoạt động bề mặt vào giếng để giữ cho các khe nứt được thông thoáng. Do fracking sử dụng nước từ các giếng nước gần địa điểm fracking, nên các nhà khoa học phát hiện ra việc có khoảng 75% giếng được thử nghiệm trong phạm vi 1 km đã bị ô nhiễm khí methane từ sự hình thành thành đá phiến sâu.
Một vấn đề khác mà những người phản đối công nghệ fracking đang nhấn mạnh là mối nguy tiềm ẩn cho môi trường là chất lỏng quay trở lại trong quá trình fracking có thể làm ô nhiễm nguồn nước uống. Tuy nhiên, hiện chưa có bằng chứng khoa học nào được xác nhận rằng mối nguy hiểm này có thể là một vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, ô nhiễm cũng có thể xảy ra do sự cố tràn bề mặt, sự phun trào dầu và xử lý chất lỏng fracking không đúng cách. Việc phát triển khí đá phiến có tác động tiêu cực đáng kể đến môi trường và sử dụng máy bơm diesel gây ô nhiễm không khí địa phương và gây nguy cơ ung thư cho người dân (Howarth, 2011).
Một vấn đề môi trường khác của fracking là gây ra dư địa chấn, liên quan đến hoạt động fracking khối lượng lớn và khai thác năng lượng. Dựa trên các nghiên cứu hiện nay, fracking hiếm khi tạo ra động đất mà con người có thể cảm nhận được (không có trận động đất nào lớn hơn cường độ 4,0 Mw). Tuy nhiên, nước thải bơm sâu có thể gây ra các trận động đất có năng lượng cao hơn đáng kể (lên tới 4,7Mw) (Jackson, 2014).
Tương lai của Lưu vực Permian
Hiện thì sản lượng dầu khí ở Lưu vực Permian hiện cao hơn trước đại dịch COVID-19. Theo BloombergNEF, sản lượng dầu khí dự kiến sẽ tăng 12% vào cuối năm tới trong kịch bản cơ bản. Khu vực khoan được trang bị đầy đủ tất cả cơ sở hạ tầng đắt đỏ và sẵn sàng gia tăng sản lượng với chi phí hòa vốn tương đối thấp (36 USD/thùng dầu). Các hãng dầu khí lớn như Exxon Mobil và Chevron đang có kế hoạch gia tăng sản lượng dầu khí tại Lưu vực Permian song do sự thiếu hụt nhân sự và chuỗi cung ứng đang làm chậm quá trình mở rộng. Theo Rystad Energy, khu vực này vẫn còn nhiều dư địa về địa điểm khoan chất lượng tốt, khả thi về mặt kinh tế với giá 50 USD một thùng dầu (Bloomberg.com).
Bên cạnh đó, hiện Lưu vực Permian cũng không bị ảnh hưởng bởi chiến lược tránh xa nhiên liệu hóa thạch như châu Âu. Tuy nhiên, giới lãnh đạo hiện tại của Hoa Kỳ đang áp đặt các yêu cầu nghiêm ngặt hơn về môi trường đối với nồng độ ozone có thể ảnh hưởng đến sự phát triển năng lượng và sản xuất dầu khí ở Lưu vực Permian (Permian Basin Facing, 2022).
Kết luận
Hiện trữ lượng dầu khí vẫn còn cao ở Lưu vực Permian. Theo Artem Abramov, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu đá phiến tại Rystad Energy, chúng ta sẽ ngừng sử dụng dầu trước khi hết dầu khí lưu trữ ở Lưu vực Permian (Wethe, 2022). Tuy nhiên, bởi do nhiên liệu hóa thạch rất cần thiết để tạo ra nguồn điện cần thiết để chạy các phương tiện điện, hệ thống sưởi, điều hòa không khí, v.v. trong tương lai, nên ông Abramov có thể đã sai./.
Tuấn Hùng
ResearchGate