Hiểu biết về ngân hàng cho vay
Hiện các ngân hàng đang kinh doanh cho vay vốn tài chính (trong số các hoạt động tài chính khác) song thường không muốn vận hành một cơ sở/dự án sẵn sàng tăng cường các cam kết của mình (chi phí vượt mức, v.v.), thanh lý một dự án và nắm quyền sở hữu. Các ngân hàng thường không được hưởng lợi từ mặt tích cực nếu dự án hoạt động tốt (“mặt trái” của họ là hoàn trả đầy đủ các khoản vay và lãi), không giống như các nhà đầu tư cổ phần được hưởng tiềm năng tăng giá.
Hầu hết các nhà phát triển dự án điện gió ngoài khơi mới (new offshore wind-OFW) ưa thích tự quản lý việc xây dựng thông qua cách tiếp cận nhiều hợp đồng
Thay vào đó, các ngân hàng chủ yếu phải đối mặt với những rủi ro giảm giá như trễ hạn thanh toán khoản vay. Họ cũng thường nhận được lợi nhuận thấp hơn so với các nhà đầu tư cổ phần, phản ánh rủi ro mà họ phải gánh chịu. Trong quá trình thẩm định sâu rộng, các ngân hàng thuê nhiều cố vấn khác nhau (kỹ thuật, pháp lý, môi trường và xã hội, v.v., tất cả đều do các nhà tài trợ dự án trả tiền). Họ đánh giá các yếu tố như môi trường chính sách ổn định, nhà thầu uy tín, nhà phát triển có kinh nghiệm, bên mua có uy tín, rủi ro quốc gia hạn chế và khả năng chuyển đổi tiền tệ trước khi cho vay đối với các dự án phát triển.
Tài chính hỗn hợp
Hiện các ngân hàng thương mại sẽ định giá đầy đủ mọi rủi ro, “tài chính hỗn hợp” là tập hợp các nguồn vốn ưu đãi và vốn thương mại thông thường và thường được đưa vào để cung cấp các hoạt động giảm thiểu, chẳng hạn như bảo hiểm rủi ro chính trị nhằm giảm thiểu những thay đổi trong luật pháp hoặc quy định, hoặc các vấn đề khác làm tăng nhận thức được những rủi ro. Tài chính hỗn hợp không phải là một khái niệm mới nhưng ngày càng có nhiều người tập trung vào nó như một phương pháp để đẩy nhanh tài chính năng lượng sạch ở EMDE khi nó giúp cung cấp tài chính cho các dự án có rủi ro cao. Tập đoàn tài chính quốc tế (IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và các tổ chức khác thực hiện các hoạt động tài chính hỗn hợp với sự hợp tác của các nhà tài trợ. Nguồn tài trợ ưu đãi được hỗ trợ bởi các nhà tài trợ được kết hợp với các khoản đầu tư thường xuyên của các tổ chức tài chính phát triển (DFI) và các nhà tài trợ thương mại. Một báo cáo gần đây của IFC/Ngân hàng thế giới WB cho thấy tài chính hỗn hợp đã giúp thúc đẩy các dự án có rủi ro cao, chẳng hạn như các dự án mới ở các thị trường chưa được thử nghiệm, các dự án có nhà tài trợ không có lịch sử hoạt động lâu dài trên thị trường hoặc các kế hoạch đổi mới không có bằng chứng về ý tưởng.
Các dự án điện gió ngoài khơi khác với tài trợ dự án lĩnh vực điện lực truyền thống
Quy mô, chi phí và độ phức tạp của các dự án điện gió ngoài khơi đã khiến hầu hết các nhà phát triển áp dụng chiến lược thực hiện nhiều hợp đồng. Đây là nơi nhà phát triển/ tổ chức mục đích đặc thù (special purpose vehicle-SPV) mua các hợp đồng riêng cho các gói công việc khác nhau cần thiết để hoàn thành dự án như turbine, đế móng tháp đỡ, trạm biến áp và hệ thống cáp. Trong tài trợ nhà máy điện truyền thống, chỉ có một nhà thầu EPC (kỹ thuật, mua sắm và xây dựng) duy nhất chịu mọi rủi ro khi giao hàng. Do sự phức tạp của điện gió ngoài khơi, không một nhà thầu EPC nào muốn làm điều này, hoặc nếu làm vậy, họ sẽ tính thêm một khoản phí bảo hiểm rủi ro đáng kể vào giá mà hầu hết các nhà phát triểndự án đều thấy không thể chấp nhận được. Do đó, hầu hết các nhà phát triển dự án điện gió ngoài khơi mới (new offshore wind-OFW) ưa thích tự quản lý việc xây dựng thông qua cách tiếp cận nhiều hợp đồng. Một điểm khác biệt đáng kể nữa là bản chất vốn “trả trước” của OFW so với các nhà máy điện truyền thống. Ở OFW không có chi phí nhiên liệu, trong khi chi phí nhiên liệu thường chiếm từ 40% đến 60% so với nhà máy điện truyền thống. Do đó, chi phí vốn chiếm phần lớn chi phí của các dự án OFW, điều này có nghĩa là các quyết định được đưa ra trước (chẳng hạn như đánh giá địa kỹ thuật, thiết kế và mua sắm) có thể có tác động đáng kể hơn đến tổng chi phí so với các quyết định trước đối với một nhà máy điện truyền thống.
Nghiên cứu điển hình: Dự án Baltic Power huy động tài chính với sự hỗ trợ của DFI và tài chính hỗn hợp trong bối cảnh cải cách quy định
CH Ba Lan được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) phân loại là thị trường mới nổi (EMDE). Tháng 9/2023, dự án điện gió ngoài khơi Baltic Power đầu tiên của Ba Lan có công suất 1,14 GW đã nhận được khoản vay vốn hỗn hợp trị giá 4,4 tỷ euro từ 25 ngân hàng thương mại và cơ quan tín dụng xuất khẩu thông qua nguồn tài trợ không truy đòi (non-recourse finance) là một loại hình cho vay thương mại cho phép người cho vay chỉ hoàn trả từ lợi nhuận của dự án mà khoản vay được tài trợ chứ không phải từ bất kỳ tài sản nào khác của người đi vay và được đảm bảo bằng tài sản thế chấp.
Do dự án Baltic Power có chi phí đầu tư vốn cao và thanh khoản ngân hàng bằng đồng nội tệ (zloty) tương đối thấp nên cần một nhu cầu cho ngân hàng thương mại quốc tế một món nợ. Sự rủi ro thường liên quan đến hợp đồng mua bán điện (PPA) tại thị trường EMDE bao gồm rủi ro đối tác, rủi ro và biến động về giá, thiếu các lộ trình thay thế để tiếp cận thị trường và rủi ro ngoại hối. Loại thứ hai thường phát sinh từ sự không khớp giữa loại tiền cho vay và loại tiền thanh toán PPA. Tình trạng này có thể trở nên trầm trọng hơn nếu đồng nội tệ thiếu thanh khoản hoặc có lãi suất cao. Rủi ro ngoại hối cũng tồn tại giữa đồng tiền cơ bản của người cho vay quốc tế và đồng tiền của khoản vay. Trong trường hợp của Baltic Power, những người cho vay dựa trên đồng euro cũng sẽ cần phải phòng ngừa rủi ro bằng zloty. Tuy nhiên, cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine đồng nghĩa với việc điều đó trở nên cực kỳ tốn kém. Chính quyền Ba Lan cuối cùng đã đồng ý gắn chương trình hỗ trợ dựa trên đồng zloty với đồng euro, về cơ bản là chuyển rủi ro tiền tệ từ người cho vay sang người tiêu dùng năng lượng, người cuối cùng tài trợ cho dự án này. Điều này làm tăng đáng kể khả năng tiếp cận nguồn tài chính và cuối cùng làm cho dự án có khả năng huy động được nguồn vốn.
Ngân hàng đầu tư châu Âu (EIB) đã có thể huy động tổng các khoản vay lên tới 610 triệu euro, trong đó 350 triệu euro được hỗ trợ bởi chương trình InvestEU, một chương trình thúc đẩy tác động nhằm huy động đầu tư cho quá trình chuyển đổi xanh ở Liên minh Châu Âu. Các tổ chức tài chính phát triển (DFIs) khác có liên quan bao gồm Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) cũng như ECA EIFO (Đan Mạch), ECA KfW (CHLB Đức) và ECA EDC (Canada), thông qua nhiều hình thức nợ thứ cấp khác nhau nhằm trấn an các nhà cho vay quốc tế và các ngân hàng thương mại địa phương. Sự tham gia mạnh mẽ của DFIs được bổ sung bằng các cải cách quy định đồng thời được ban hành theo đạo luật Điện gió ngoài khơi Ba Lan. Ngoài ra, việc đảm bảo thỏa thuận bao tiêu hợp đồng chênh lệch (CfD) có thời hạn 25 năm, bao gồm các điều khoản về chỉ số lạm phát và kết nối lưới điện, đã củng cố niềm tin của những người cho vay thương mại tư nhân. Điều này làm tăng mức độ quan tâm và thoải mái của họ trong việc tài trợ cho dự án, cuối cùng là cải thiện nhận thức về rủi ro của dự án. Sự tiến bộ đồng thời của quy định và cam kết từ các tổ chức tài chính phát triển và các tổ chức tín dụng xuất khẩu đã giúp cho chương trình tài trợ này trở nên khả thi. Do vậy, cấu trúc thành công này cũng có thể được nhân rộng ở các thị trường khác.
Link nguồn:
https://www.connaissancedesenergies.org/sites/connaissancedesenergies.org/files/pdf-actualites/GOWR-2024_digital_final_2.pdf
Tuấn Hùng