Thăm dò, khai thác dầu khí: Cần có cơ chế, chính sách phù hợp
Trước tình trạng sản lượng khai thác dầu khí trong nước trên đà suy giảm, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) đã và đang đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động tìm kiếm, thăm dò. Đồng thời, triển khai các giải pháp, biện pháp kỹ thuật để đưa vào khai thác các mỏ ở khu vực nước sâu, xa bờ. Song, để thực hiện được mục tiêu đề ra cũng đòi hỏi có hành lang pháp lý vững chắc và những cơ chế, chính sách đặc biệt.

Suy giảm sản lượng khai thác mỏ hiện hữu

Theo báo cáo đến thời điểm này, tổng trữ lượng dầu khí đã phát hiện trên thềm lục địa Việt Nam vào khoảng trên 1,5 tỷ mét khối quy dầu, trong đó có khoảng 734 triệu mét khối dầu và condensate và 798 tỷ mét khối khí. Trữ lượng các mỏ đang khai thác tập trung chủ yếu ở bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Sông Hồng, Malay - Thổ Chu.


Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa - Nguồn: ITN

Ngoài các khu vực đã có phát hiện dầu khí, ở các bể trầm tích trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam còn nhiều cấu tạo chưa được thăm dò với tiềm năng có thể thu hồi từ 1,5 - 2,5 tỷ mét khối quy dầu, trong đó khu vực nước sâu, xa bờ, phức tạp chiếm khoảng 50%. Tiềm năng các cấu tạo này phân bố ở các khu vực nước sâu, xa bờ, điều kiện thi công thực địa phức tạp, khó chủ động thực hiện; các khu vực này ít được thăm dò, mới chỉ có phát hiện dầu khí, tài liệu còn hạn chế nên dự báo tiềm ẩn rủi ro cao.

Hiện tại, các mỏ dầu khí chủ đạo như Bạch Hổ, cụm mỏ Sư Tử, Tê Giác Trắng, Lan Tây,… đều đang khai thác với mức độ suy giảm sản lượng cao. Các phương pháp tăng cường hệ số thu hồi dầu mới bắt đầu thử nghiệm, chưa được triển khai rộng rãi ở quy mô lớn do gặp khó khăn về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế. Các mỏ mới dự kiến đưa vào phần lớn lại là mỏ có cấu tạo phức tạp, trữ lượng thấp. Thêm vào đó, nguồn tài nguyên dầu khí tại chỗ còn lại, khí chiếm tỷ trọng lớn hơn dầu, phân bổ không đồng đều, tập trung ở vùng nước sâu, xa bờ, có điều kiện địa chất và kỹ thuật phức tạp, khai thác gặp nhiều thách thức. Vì vậy, công tác tìm kiếm thăm dò gia tăng trữ lượng ngày càng khó khăn, hệ số bù trữ lượng hàng năm không bảo đảm bù cho sản lượng dầu khí khai thác.

Trong khi đó, Luật Dầu khí hiện hành chưa có các điều kiện, cơ chế khuyến khích phù hợp cho hoạt động đầu tư để phát triển các mỏ nhỏ, cận biên mà các điều kiện của hợp đồng dầu khí liên quan, dù đã được áp dụng các điều kiện khuyến khích đầu tư hiện hành, chưa đủ bảo đảm lợi ích cho các nhà đầu tư, nhà thầu dầu khí. Các quy định về khuyến khích đầu tư đối với các dự án dầu khí được ban hành từ năm 2005 đã có những điều chỉnh, bổ sung nhưng không mang tính tổng thể trên cơ sở xác định và cập nhật tiêu chí về mặt kỹ thuật, kinh tế và pháp lý.

Petrovietnam đã đề xuất về việc ban hành danh mục các dự án khuyến khích đầu tư điều chỉnh và danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư cùng với khung pháp lý tương ứng nhưng chưa được các cấp có thẩm quyền chấp nhận. Điều này ảnh hưởng lớn đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí.

Chú trọng chính sách thu hút đầu tư

Trên thực tế, để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đều phải có những thay đổi nhất định trong cơ chế, chính sách. Đơn cử như Malaysia đã áp dụng hình thức hợp đồng chia sản phẩm trong hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí từ năm 1976 và luôn thay đổi để phù hợp với các điều kiện đặc thù về tài nguyên dầu khí. Năm 2011, Malaysia ban hành hợp đồng dịch vụ rủi ro cho các mỏ có trữ lượng dưới 30 triệu thùng dầu, khoảng 500 triệu mét khối khí, đặc biệt giảm thuế từ 38% ở dạng thông thường xuống còn 25% và miễn thuế xuất khẩu…

Với các mỏ suy giảm sản lượng, có trữ lượng dưới 30 triệu thùng, cho phép khấu trừ thuế tài nguyên và phần còn lại sẽ chia cho các nhà thầu. Các mỏ dầu khí cận biên và trữ lượng rất nhỏ thì áp dụng cơ chế đặc biệt chỉ thu thuế tài nguyên và phần tham gia của công ty dầu khí quốc gia, phần lợi nhuận còn lại sẽ được chia cho nhà thầu. Từ năm 2019, Malaysia bắt đầu tiếp tục nghiên cứu mẫu PSC mới (SFA PSC) theo hướng đơn giản hóa các thủ tục nhằm khuyến khích đầu tư tại các khu vực mỏ này.

Tại Brazil, để thu hút các nhà đầu tư tham gia vào các mỏ đặc biệt, Chính phủ Brazil đã giảm 70% giá thanh toán quyền thăm dò cho 2 lô dầu Sepia và Atapu, ở vùng nước rất sâu, dưới một lớp muối dày ngoài khơi Rio de Janeiro vào tháng 12.2021. Các nước như Nga, Trung Quốc, Algeria… cũng đã sửa đổi luật, ban hành nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư nước ngoài tham gia vào các dự án dầu khí trong tương lai, đặc biệt là với các lô, mỏ dầu khí ở vùng nước sâu xa bờ, điều kiện kỹ thuật cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Đối với Việt Nam, các chuyên gia cho rằng, cần xem xét, nghiên cứu đưa ra cơ chế phù hợp nhất với bối cảnh hiện nay, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí trên thềm lục địa.

Theo đó, tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 02-NQ/TW và thông tin, giải đáp về Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) ngày 22.12, Quyền Trưởng ban Pháp chế và Kiểm tra Petrovietnam Mai Thị Nhật Lan chia sẻ, dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) sẽ tập trung vào các nhóm chính sách quan trọng, trong đó có quy định việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi, từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý; quy định về ưu đãi đầu tư dầu khí và đặc biệt ưu đãi đầu tư dầu khí, trong đó lưu ý cơ chế chính sách đối với các mỏ nhỏ, cận biên và khai thác tận thu; quy định việc cho phép bên thứ 3 tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí....

Theo: Báo Đại biểu nhân dân