“Hành lang” đã rộng
Kết quả khảo sát “việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường” tại các đơn vị/nhà thầu dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các nhà thầu dầu khí nước ngoài do Viện Dầu khí Việt Nam thực hiện mới đây cho thấy: Nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã được cập nhật, điều chỉnh kịp thời, đáp ứng phần nào các yêu cầu mở rộng sản xuất-kinh doanh trong công nghiệp dầu khí. Đó là các văn bản pháp luật như: Nghị định 80/2006/NĐ-CP, Nghị định 21/2008/NĐ-CP, Nghị định 29/2011/NĐ-CP, Nghị định 59/2007/NĐ-CP, QCVN 29:2010/BTNMT về nước thải của kho và cửa hàng xăng dầu, QCVN 34:2010/BTNMT về khí thải từ công nghiệp lọc hóa dầu đối với bụi và các chất vô cơ, QCVN 35:2010/BTNMT về nước khai thác thải từ các công trình khai thác dầu khí biển, QCVN 36:2010/BTNMT về dung dịch khoan và mùn khoan thải từ các công trình dầu khí trên biển, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài nguyên Môi trường về công tác quan trắc môi trường.
Theo đó, các điều chỉnh này đã buộc các tổ chức dầu khí phải lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường trong quy trình lập và triển khai các dự án dầu khí; phân loại, phân cấp thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, quy định nguồn kinh phí lập các báo cáo, giới hạn thải của các chất thải. Đặc biệt, nhận thức về bảo vệ môi trường ở các đơn vị dầu khí được nâng cao khi đã tự giác tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường, có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về môi trường; xây dựng, duy trì và cải tiến hệ thống quản lý an toàn sức khỏe và môi trường theo chuẩn mực quốc tế như ISO 9001:2008, ISO 14001:2004 và OHSAS 18001:2008. Các đơn vị đã thực hiện sản xuất sạch hơn trong sản xuất, nghiên cứu và áp dụng cơ chế phát triển sạch bằng việc thu gom khí đồng hành ngoài khơi về bờ của JVPC, thu khí CO2 làm nguyên liệu sản xuất ở nhà máy Đạm Phú Mỹ, sử dụng khí Metan phát sinh từ nước thải của các nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Ethanol.
Theo Viện Dầu khí Việt Nam, nhờ hầu hết các quy định bảo vệ môi trường không phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp dầu khí nhà nước, cổ phần liên doanh, nước ngoài, tư nhân cũng như được xây dựng dựa trên sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo, ban hành và các đơn vị dầu khí nên các văn bản pháp luật này mang tính khả thi cao và giúp các đơn vị dầu khí từng bước tiếp cận và hòa nhập với các thông lệ quốc tế.
Nhưng vẫn “khó đi”
Chỉ ra những tồn tại trong hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường liên quan tới ngành công nghiệp dầu khí, chuyên gia Dương Đình Nam (Viện Dầu khí Việt Nam) khẳng định: Hiện nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã sửa đổi, bổ sung nhưng không phủ nhận hoàn toàn lẫn nhau trong khi việc ban hành các thông tư hướng dẫn lại chậm khiến các tổ chức dầu khí lúng túng khi áp dụng các Nghị định 80, 21, 29. Cùng đó, có những văn bản vừa ban hành đã không phù hợp với thực tế hay chuẩn mực quốc tế như Thông tư 31/2011/TT-BTNMT về quy trình kỹ thuật quan trắc môi trường nước biển; một số văn bản đã lỗi thời mà không kịp thay thế như Quyết định 395/1998/BKHCNMT về “Quy chế bảo vệ môi trường trong việc tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ, khai thác, tàng trữ, vận chuyển, chế biến dầu khí và các dịch vụ liên quan”, Quyết định 129/2001/QĐ-TTg về “Kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu quốc gia, Quyết định 103/2005/QĐ-TTg về “Quy chế hoạt động ứng phó tràn dầu… đã khiến các tổ chức dầu khí gặp khó khăn khi áp dụng.
Việc thực hiện lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường đối với một số dự án còn mang tính thủ tục khiến nhiều chủ dự án quan tâm chưa đúng mức dẫn tới sự khó khăn, bất cập và thậm chí không thực hiện được các cam kết trong nội dung các báo cáo đã được phê duyệt sau khi dự án đi vào hoạt động. Hơn thế, trong một số điều khoản của văn bản pháp quy còn tồn tại một số mâu thuẫn như (Khoản 1, Điều 13 của Nghị định 29/2011/NĐ-CP) vừa yêu cầu trình các cấp báo cáo đánh giá tác động môi trường cùng với Báo cáo đầu tư (báo cáo nghiên cứu khả thi) trong khi ở giai đoạn này, báo cáo đầu tư chưa đủ thông tin kỹ thuật chi tiết, còn báo cáo đánh giá tác động môi trường lại đòi hỏi chi tiết.
Viện Dầu khí Việt Nam cũng cho biết: Mặc dù các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã bao phủ hầu khắp các lĩnh vực hoạt động dầu khí nhưng ranh giới quản lý hành chính vùng biển ngoài khơi chưa được phân định, dẫn tới sự bất cập trong công tác thực hiện quản lý môi trường của tổ chức dầu khí và cơ quan quản lý nhà nước địa phương. Đặc biệt, hành lang pháp lý khá rộng nhưng lại thiếu các quy định cần thiết bảo vệ môi trường và phục hồi môi trường trong giải phóng mặt bằng, nạo vét cảng và luồng hàng hải, thu dọn các công trình dầu khí; chưa có quy định về quản lý chất thải phát sinh trong quá trình thu dọn các công trình dầu khí và quy định ràng buộc cho việc bơm chất thải từ quá trình khoan, khai thác thác dầu khí trở lại vỉa thay vì phải xử lý tại chỗ hoặc mang về bờ để xử lý.
Quan trọng là phải thuận lợi
Các quy định bảo vệ môi trường đóng vai trò quyết định trong công tác bảo vệ môi trường ngành công nghiệp dầu khí, nhất là trong thời kì phát triển và hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay. Vì vậy, cùng với việc xem xét các phản hồi từ chính đối tượng áp dụng văn bản, cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường phải thường xuyên rà soát định kì các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đặc thù ngành (ít nhất 5 năm/lần) và điều chỉnh các bất cập theo hướng phù hợp với thực tế triển khai, đáp ứng tốt hơn với sự phát triển của hoạt động sản xuất-kinh doanh ngày càng lớn mạnh của ngành dầu khí, chuyên gia Nguyễn Đức Huỳnh (Hội Dầu khí Việt Nam) đề xuất.
Cụ thể, cơ quan soạn thảo văn bản pháp luật cần xem xét tham gia đầy đủ các điều ước quốc tế như Công ước quỹ (Fund 92), Phụ lục VI/MARPOL 73/78 quy định ngăn ngừa ô nhiễm do khí thải từ tàu cũng như nội luật hóa các văn bản về các điều ước/thông lệ quốc tế, nhất là các quy định về bảo vệ môi trường trong các hoạt động dầu khí ở biển. Bên cạnh đó, Luật Dầu khí cần được bổ sung một chương riêng quy định về công tác bảo vệ môi trường và ứng phó sự cố môi trường bởi đây là vấn đề có tầm ảnh hưởng rất lớn.
Theo dự báo, lượng khí phát thải nhà kính (khí CO2) từ hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí sẽ tăng gấp 3,6 lần, đạt tới con số 42 triệu tấn vào năm 2015. Vì vậy, việc tạo hành lang pháp lý nhằm khuyến khích việc bơm ép nước khai thác và khí CO2 phát sinh trong các hoạt động khoan khai thác dầu khí xuống vỉa địa tầng sâu sẽ không chỉ góp phần nâng cao hệ số thu hồi dầu trong khai thác, tiết kiệm chi phí cho công tác xử lý nước khai thác mà còn làm giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ các hoạt động dầu khí của Việt Nam. Cùng đó, việc ban hành các ưu đãi cụ thể hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng cơ chế phát triển sạch và sản xuất sạch hơn, các giải pháp xanh trong công nghiệp dầu khí sẽ là “đòn bẩy” hữu hiệu với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, chuyên gia Dương Đình Nam nhấn mạnh. (Tin Tức - Nguyễn Kim Anh)