Kinh doanh quốc tế là hoạt động đã được Petrovietnam triển khai trong những năm qua, thông qua xuất khẩu dầu thô, LPG, phân bón, hóa chất; dịch vụ kỹ thuật dầu khí, vận tải, khoan, EPC; đầu tư liên doanh tại Algeria, Nga, Lào, Singapore, Dubai (UAE),... Hiện nay, trước yêu cầu đổi mới toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, HĐTV Petrovietnam xác định đây là động lực tăng trưởng quan trọng, do đó, ban hành Nghị quyết 7558/NQ-CNNL về “Phát triển thị trường và Kinh doanh quốc tế của Petrovietnam giai đoạn 2026 - 2030”.
Nghị quyết nhằm hiện thực hiện hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về hợp tác quốc tế và mục tiêu đưa Tập đoàn vào Top 10 khu vực, gia nhập Fortune Global 500 vào năm 2030, thông qua mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả và tăng trưởng doanh thu quốc tế. Tập đoàn cũng khẳng định phát triển thị trường và kinh doanh quốc tế là giải pháp trọng tâm trong chiến lược phát triển.
Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung chứng kiến lễ trao Bản ghi nhớ hợp tác về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân giữa Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Điện lực Hàn Quốc
Nghị quyết cũng xác định mục tiêu: Phát triển mô hình kinh doanh quốc tế tích hợp chuỗi giá trị dầu khí – năng lượng, hình thành hệ sinh thái kinh doanh quốc tế trên các lĩnh vực Công nghiệp – Năng lượng – Dịch vụ với vai trò dẫn dắt, điều phối của Công ty Mẹ; Tăng quy mô, sản lượng hàng hóa, dịch vụ để gia tăng giá trị và tối ưu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; Mở rộng thị trường tiềm năng (Trung Đông, Châu Phi, Châu Mỹ…) và củng cố thị trường truyền thống; Đảm bảo cơ cấu phù hợp để tăng năng lực cạnh tranh, thích ứng biến đổi khí hậu và năng lượng sạch; Xây dựng hệ thống quản trị quốc tế chuyên biệt, phát triển thương hiệu toàn cầu.
Toàn cảnh hội nghị
Nghị quyết đề ra giải pháp trọng tâm về hoàn thiện chiến lược và cơ chế thông qua việc bổ sung chỉ tiêu kinh doanh quốc tế vào kế hoạch hàng năm và 5 năm trong Chiến lược phát triển Petrovietnam đến 2030, định hướng 2050. Nghị quyết cũng xác định mô hình, vị trí, vai trò Công ty Mẹ với lộ trình cụ thể.
Đồng thời, Nghị quyết chú trọng xây dựng bộ giải pháp quản trị rủi ro, chính sách - công cụ phòng ngừa, cơ chế cảnh báo sớm và các phương án ứng phó linh hoạt; phát triển nguồn nhân lực quốc tế, nâng cao năng lực đàm phán, quản trị và triển khai dự án tại nước ngoài.
Đến nay, sản phẩm mang thương hiệu Phân bón Cà Mau đã có mặt tại 20 quốc gia
Cùng với việc ban hành Nghị quyết 7558/NQ-CNNL, HĐTV Petrovietnam cũng đã ban hành kế hoạch hành động tổng thể triển khai Nghị quyết, nhằm hiện thực hoá mục tiêu chiến lược mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả và tăng trưởng doanh thu quốc tế. Trong thời gian qua, các đơn vị thành viên của Petrovietnam đã và đang đẩy mạnh chiến lược kinh doanh quốc tế, thể hiện qua nhiều hướng đi cụ thể: PVEP tích cực tìm kiếm các cơ hội hợp tác, đầu tư tại nước ngoài như Kazakhstan, Indonesia...; PV GAS thành lập công ty con - PV GAS International để thúc đẩy kinh doanh quốc tế làm động lực chính trong bối cảnh thị trường nội địa đã bão hòa, đặc biệt ở lĩnh vực LNG.
Petrovietnam thành công chế tạo và xuất khẩu chân đế điện gió ngoài khơi xuất khẩu
PVOIL mở rộng hoạt động hiệu quả tại thị trường Lào, Singapore và chuẩn bị xuất khẩu sang Campuchia, với mục tiêu doanh thu quốc tế đạt 80.000 tỷ đồng vào năm 2030; BSR thành lập bộ phận phát triển thị trường quốc tế, mở rộng văn phòng để tham gia sâu hơn vào kinh doanh quốc tế; PVNDB được giao thêm chức năng gắn trực tiếp với kinh doanh quốc tế, phối hợp triển khai kinh doanh dầu thô quốc tế; PVCFC với 10 năm xuất – nhập khẩu phân bón ra các thị trường quốc tế và khu vực đang triển khai thực hiện định hướng xây dựng Việt Nam thành “hub” trung chuyển hàng hóa của khu vực và thế giới.
PV GAS tham gia chủ trì các hội thảo quốc tế để chủ động mở rộng tầm ảnh hưởng và đạt được những bước tiến quan trọng trên thị trường quốc tế
Những bước đi này cho thấy các đơn thành viên của Petrovietnam đang chuyển mạnh sang khai thác cơ hội toàn cầu, tạo nền tảng củng cố thương hiệu Petrovietnam trong lĩnh vực năng lượng.
Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Ngọc Sơn nhấn mạnh, mục tiêu của Nghị quyết là hiện thực hóa chiến lược mở rộng quy mô và thị trường quốc tế, quyết tâm đưa Petrovietnam vào danh sách Fortune Global 500 vào năm 2030. Tập đoàn phấn đấu đạt tăng trưởng doanh thu quốc tế theo lộ trình đã đề ra, hướng tới tỷ trọng 30% tổng doanh thu hợp nhất vào năm 2030.
Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Ngọc Sơn nhấn mạnh việc mở rộng thị trường quốc tế nhằm mục tiêu đưa Petrovietnam vào danh sách Fortune Global 500 vào năm 2030.
Tổng Giám đốc Petrovietnam Lê Ngọc Sơn khẳng định, trọng tâm là xây dựng hệ sinh thái kinh doanh quốc tế, từ đó tạo nên sức mạnh tổng thể của Tập đoàn khi vươn ra thị trường toàn cầu. Giữ vai trò chủ trì, đầu mối điều phối chiến lược, đảm bảo thống nhất, nâng cao năng lực tổng thể của cả hệ sinh thái Petrovietnam. Cùng với đó, nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng hệ thống quản trị quốc tế chuyên biệt, phát triển thương hiệu toàn cầu, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và tăng cường năng lực tài chính. Tổng Giám đốc Petrovietnam cũng lưu ý, Tập đoàn cần chuẩn bị tốt về nguồn lực, mô hình, hạ tầng vật chất và hạ tầng số, hướng đến xuất khẩu sản phẩm chủ lực, dịch vụ và mở rộng thương mại quốc tế.
Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Lê Mạnh Hùng khẳng định, phát triển kinh doanh quốc tế là giải pháp quan trọng trong Chiến lược phát triển Petrovietnam đến năm 2030, định hướng đến 2050, nhằm tăng trưởng doanh thu và chứng minh năng lực cạnh tranh toàn cầu của Tập đoàn.
Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Lê Mạnh Hùng nhấn mạnh, cần tối ưu mô hình đầu tư quốc tế, tạo thuận lợi và lực đẩy cho sự phát triển của các đơn vị thành viên
Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Lê Mạnh Hùng đề nghị, toàn Tập đoàn triển khai ngay việc rà soát, tháo gỡ các rào cản về quy chế nội bộ, hình thành hệ thống thông tin quản trị và cơ sở dữ liệu phục vụ kinh doanh quốc tế, đồng thời mở các khóa đào tạo về ngoại thương. Đồng chí nhấn mạnh, cần tối ưu mô hình đầu tư quốc tế, xác định hệ sinh thái kinh doanh quốc tế trong toàn Tập đoàn, tạo thuận lợi và lực đẩy cho sự phát triển của các đơn vị thành viên. Bên cạnh đó, chú trọng đánh giá, cập nhật thị trường từ cả phía cung và cầu, gắn với dự báo kinh tế, nhu cầu sản phẩm – dịch vụ và tỷ lệ tham gia, từ đó xác định hướng đầu tư và xuất khẩu, vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa tạo giá trị từ an ninh năng lượng. Đồng chí yêu cầu xây dựng kế hoạch cụ thể ngay trong năm 2025, chứng minh sự dịch chuyển cơ cấu doanh thu và tạo nền tảng bứt phá cho giai đoạn tới.
Phương Thảo