Petrovietnam đẩy mạnh triển khai Chiến lược Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số
0:00 /
Chọn Giọng
  • Nữ Miền Bắc
  • Nam Miền Bắc
  • Nam Miền Nam
  • Nữ Miền Nam
Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã ban hành Chiến lược Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 (Chiến lược), xác lập định hướng đột phá nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa KHCN, ĐMST và CĐS trở thành động lực tăng trưởng bền vững của Tập đoàn.

Chiến lược xác định rõ KHCN, ĐMST và CĐS là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh toàn Tập đoàn.

Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan triển lãm khoa học công nghệ 50 năm thành lập Petrovietnam.

Mục tiêu tổng quát đặt ra là đến năm 2030, tiềm lực công nghệ và năng lực ĐMST của Petrovietnam đạt mức tiên tiến của khu vực ở nhiều lĩnh vực trọng điểm; một số lĩnh vực đạt trình độ quốc tế. KHCN, ĐMST và CĐS phải trở thành động lực tăng trưởng mới, góp phần đưa Tập đoàn tăng trưởng bền vững với tốc độ hai con số, hướng tới lọt Top 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới.

Chiến lược cũng xác định tầm nhìn đến năm 2050, toàn bộ hoạt động của Tập đoàn sẽ được vận hành trên nền tảng số; các chương trình nghiên cứu, ĐMST đạt chuẩn quốc tế và Petrovietnam làm chủ công nghệ ở các lĩnh vực then chốt, vận hành các mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, năng lượng sạch và chuỗi giá trị dữ liệu.

Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các đại biểu tham quan triển lãm những thành tựu khoa học kỹ thuật nổi bật của Petrovietnam trong 50 năm hình thành và phát triển.

Điểm nhấn quan trọng của Chiến lược là mô hình tổ chức và vận hành Hệ sinh thái ĐMST Petrovietnam. Hệ sinh thái này được thiết kế dựa trên mô hình lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể khoa học, Công ty mẹ Tập đoàn đóng vai trò điều phối, kiến tạo cơ chế, chính sách. Theo đó, Trung tâm Khoa học, Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Đào tạo sẽ là hạt nhân trí tuệ, đóng vai trò kết nối toàn hệ thống, hợp nhất các năng lực nghiên cứu hiện có, bảo đảm định hướng nghiên cứu dài hạn đi kèm đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Chiến lược phát triển KHCN được xác định theo hướng đồng bộ, liên thông, có trọng tâm, trọng điểm, liên kết chuỗi giá trị/lĩnh vực, gắn với chiến lược chung và được điều phối thống nhất bởi Công ty mẹ Tập đoàn.

Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Lê Mạnh Hùng xem thông tin các sản phẩm mới của BSR tại Triển lãm Khoa học Công nghệ Petrovietnam.

Tại các đơn vị thành viên, hệ thống đầu mối ứng dụng công nghệ sẽ được thiết lập nhằm đưa các công nghệ mới, sáng kiến vào thực tiễn sản xuất, thử nghiệm, đánh giá và nhân rộng. Đồng thời, chịu trách nhiệm quản trị tài sản trí tuệ, thúc đẩy quá trình thương mại hóa các sản phẩm công nghệ mang thương hiệu Petrovietnam, tạo thêm nguồn giá trị gia tăng cho Tập đoàn.

Chiến lược cũng đặt mục tiêu hoàn thiện nền tảng dữ liệu thống nhất toàn Tập đoàn; phát triển hạ tầng số và cơ sở dữ liệu lớn trong tất cả các lĩnh vực từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác đến công nghiệp khí, hóa dầu, điện và năng lượng tái tạo.

Việc đầu tư cho công nghệ số và an ninh mạng được yêu cầu triển khai đồng bộ, hiện đại và liên tục nâng cấp, cập nhật.

Đặc biệt, phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ người lao động trong Tập đoàn gắn với nhanh chóng tiếp thu, làm chủ và ứng dụng thành tựu KHCN tiên tiến của thế giới, đặc biệt là chủ động tiếp cận và khai thác triệt để các công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới làm chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Tập đoàn có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế, phục vụ phát triển năng lực cạnh tranh của Tập đoàn cho các sản phẩm hàng hóa/dịch vụ chủ lực.

Để bảo đảm thực thi hiệu quả, Chiến lược yêu cầu đưa các chỉ tiêu KHCN, ĐMST và CĐS vào hệ thống KPI của từng đơn vị; coi kết quả triển khai là tiêu chí đánh giá thi đua, khen thưởng và đánh giá năng lực điều hành của người đứng đầu. Các ban chuyên môn tại Công ty mẹ Tập đoàn được giao nhiệm vụ tham mưu, theo dõi, kiểm tra, giám sát tiến độ và hiệu quả triển khai chiến lược.

KHCN, ĐMST và CĐS là động lực mạnh mẽ để Petrovietnam bứt phá trên chặng đường phát triển mới.

Theo đó, Petrovietnam và các đơn vị thành viên hàng năm phải đầu tư tối thiểu 2% doanh thu hợp nhất cho hoạt động KHCN, ĐMST và CĐS. Cùng với đó, Tập đoàn chủ trương thu hút và trọng dụng nhân lực chất lượng cao, thiết lập cơ chế đào tạo và thu hút chuyên gia đầu ngành, phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về trí tuệ nhân tạo, quản trị số và khoa học dữ liệu.

Chiến lược cũng nhấn mạnh việc chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu phát triển, tạo điều kiện cho thử nghiệm sáng tạo, triển khai mô hình đầu tư mạo hiểm công nghệ và mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài nước. Đặc biệt là phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số, làm giàu tri thức ngành, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn chung của toàn ngành, giúp nâng cao năng suất lao động, hình thành mô hình kinh doanh mới, tham gia công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.

Với định hướng xuyên suốt là “hiện đại, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, tránh lãng phí”, Petrovietnam đặt trọng tâm vào việc đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hóa ĐMST, khuyến khích tinh thần dám nghĩ dám làm, lan tỏa tinh thần học tập, sáng tạo, đổi mới trong toàn hệ thống. Việc ban hành Chiến lược KHCN, ĐMST và CĐS đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 là bước đi chiến lược của Petrovietnam trong quá trình chuyển đổi mô hình phát triển, xây dựng nền tảng tri thức, công nghệ và con người để dẫn dắt quá trình chuyển dịch năng lượng quốc gia.

Nguyệt Tuyết