Ngành dầu khí: Tìm giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
Theo thống kê mới nhất của Viện Dầu khí Việt Nam, đến năm 2015, lượng khí phát thải nhà kính (khí CO2) từ hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí sẽ lên tới 42 triệu tấn, tăng 3,6 lần so với năm 2011, tác động đáng kể đến biến đổi khí hậu.

Nguyên nhân khiến lượng khí phát thải nhà kính của ngành dầu khí tăng cao là do các nhà máy của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam làm chủ đầu tư như Nhiệt điện Vũng Áng 1, Nhơn Trạch 2, nhà máy đạm Cà Mau, nhà máy xơ sợi Đình Vũ và ba nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học sẽ đi vào hoạt động ổn định nên thải ra lượng khí nhà kính đáng kể. Trong đó, nguồn phát thải lớn nhất là từ các nhà máy điện với 5,6 triệu tấn/năm, chiếm 50% tổng lượng phát thải. Tiếp đến là phát thải từ ngành công nghiệp khai thác dầu khí chiếm khoảng 28%, ngành lọc hóa dầu chiếm 18%, phần còn lại là từ sản xuất phân đạm và công nghiệp khí.

Không chỉ là thủ phạm, ngành dầu khí cũng là nạn nhân chịu ảnh hưởng rất lớn của biến đổi khí hậu. Các nhà máy lọc dầu, khí gas, các bể chứa và tuyến đường ống dẫn ở các vùng thấp ven biển đang chịu những rủi ro ngày càng tăng về mức độ hư hỏng, gãy vỡ và chi phí bảo trì cao hơn. Sự xâm nhập mặn có thể làm ăn mòn vật tư thiết bị sử dụng trong sản xuất và phân phối năng lượng. Các đợt nắng nóng tăng lên, các đợt lạnh trái mùa, lũ lụt bất thường có thể bị phá vỡ cấu trúc hạ tầng năng lượng...

Để giảm lượng khí nhà kính phát thải từ các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí và các hoạt động khác, Chiến lược phát triển của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giai đoạn đến 2015, tầm nhìn 2020 đặt ra mục tiêu giảm lượng khí thải nhà kính. Theo đó, tiếp tục các giải pháp thu hồi, tái sử dụng khí đồng hành từ quá trình đốt đuốc và thu hồi khí metan thất thoát từ các bồn chứa… để làm nhiên liệu cấp tại chỗ. Nhiều đơn vị đã thực hiện sản xuất sạch hơn trong sản xuất, nghiên cứu và áp dụng cơ chế phát triển sạch bằng việc thu gom khí đồng hành ngoài khơi về bờ của JVPC, thu khí CO2 làm nguyên liệu sản xuất ở nhà máy Đạm Phú Mỹ, sử dụng khí metan phát sinh từ nước thải của các nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Ethanol.

Bên cạnh đó, việc tìm kiếm thay thế các nhiên liệu nguồn gốc sinh học thân thiện với môi trường sẽ giúp giảm đáng kể lượng khí phát thải. Tiếp tục triển khai việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, giảm khí phát thải nhà kính.

Theo các chuyên gia, Luật Dầu khí cần có chương riêng quy định về công tác Bảo vệ môi trường và ứng phó sự cố môi trường. Đồng thời, Chính phủ cần ban hành các ưu đãi cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp ngành dầu khí áp dụng cơ chế sản xuất sạch hơn, các giải pháp xanh nhằm thực hiện mục tiêu Bảo vệ môi trường phát triển bền vững.

Được biết, hiện nay, nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đã được cập nhật, điều chỉnh kịp thời. Theo đó, các tổ chức dầu khí phải lập các báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết Bảo vệ môi trường trong quy trình lập và triển khai các dự án dầu khí; quy định nguồn kinh phí lập các báo cáo, giới hạn thải của các chất thải. Đặc biệt, nâng cao nhận thức về Bảo vệ môi trường ở các đơn vị dầu khí; thành lập bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách về môi trường; xây dựng, duy trì và cải tiến hệ thống quản lý an toàn sức khỏe và môi trường theo chuẩn mực quốc tế như ISO 9001:2008, ISO 14001:2004 và OHSAS 18001:2008.

Tuy nhiên, theo ông Dương Đình Nam (Viện Dầu khí Việt Nam), hiện có nhiều văn bản đã lỗi thời mà không kịp thay thế khiến các tổ chức dầu khí gặp khó khăn khi áp dụng.

Bên cạnh đó, ranh giới quản lý hành chính vùng biển ngoài khơi chưa được phân định, dẫn tới sự bất cập trong công tác thực hiện quản lý môi trường của tổ chức dầu khí và cơ quan quản lý nhà nước địa phương. Đặc biệt, hành lang pháp lý thiếu các quy định cần thiết bảo vệ môi trường và phục hồi môi trường trong giải phóng mặt bằng, nạo vét cảng và luồng hàng hải, thu dọn các công trình dầu khí; chưa có quy định về quản lý chất thải phát sinh trong quá trình thu dọn các công trình dầu khí và quy định ràng buộc cho việc bơm chất thải từ quá trình khoan, khai thác thác dầu khí trở lại vỉa thay vì phải xử lý tại chỗ hoặc mang về bờ để xử lý. (Công Thương - Thanh Hà)