Những chuyên gia đầu tiên
Thời điểm giữa thế kỷ 20, xăng dầu tại Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào sự viện trợ của Liên Xô và Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ thôi khao khát về việc xây dựng một nền công nghiệp dầu khí phát triển để tự chủ năng lượng. Với quyết tâm, bằng những bước chuẩn bị bài bản và sự giúp đỡ của Liên Xô, ngành địa chất và công cuộc trường chinh “Tìm dầu để làm giàu cho Tổ quốc” dần có những hình hài nhất định.
Chuyên gia Liên Xô N.K. Griaznov. (Ảnh tư liệu).
Những năm 1956 đến năm 1959, Chính phủ đã giao cho Bộ Giáo dục gửi một số học sinh đi học về địa chất, dầu khí tại Liên Xô và Rumani. Những người học dầu khí được đào tạo tại Trường Đại học Dầu khí Mátxcơva (Liên Xô) và Trường Đại học Dầu khí và Địa chất Bucharest (Rumani). Những người được học về địa chất và địa vật lý chung được đào tạo tại Trường Đại học Địa chất thăm dò Mátxcơva. Bên cạnh đó có những người học ngành địa chất trong nước. Sau khi tốt nghiệp, họ đã tham gia ngay vào công tác địa chất, thăm dò dầu khí ở miền Bắc Việt Nam. Đây là lớp cán bộ đầu tiên của ngành Dầu khí Việt Nam.
Cuối năm 1958, chuyên gia N.K. Griaznov của Liên Xô sang giúp Việt Nam lập kế hoạch thăm dò dầu khí theo lời mời của Chính phủ. Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu tài liệu của Sở Địa chất Đông Dương, chuyên gia N.K. Griaznov cùng 2 cán bộ Việt Nam là Lê Văn Cự và Trần Văn Trị đã tiến hành 2 lộ trình ngắn khảo sát thực địa, trong đó có vùng Núi Lịch, tỉnh Yên Bái. Theo lời ông Lê Văn Cự (người sau này trở thành Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Dầu khí) kể lại, vào khoảng đầu năm 1959, phái đoàn Liên Xô đến làm việc tại Cục Địa chất Việt Nam. Trong buổi làm việc này, chuyên gia N.K. Griaznov đã trình bày bản Kế hoạch công tác phát hiện những vùng có triển vọng dầu lửa ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bản đề nghị về dầu mỏ.
Bản kế hoạch này có các nội dung chính sau: Một là tổ chức kiểm tra kỹ tất cả những thông tin cả trên tài liệu và cả những thông tin người dân báo về dầu khí trong phạm vi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thứ hai là tiến hành nghiên cứu, đánh giá triển vọng dầu khí ở các vùng phát triển trầm tích Cổ sinh thượng, Trung sinh, Tân sinh bị biến chất yếu nhất.
Đoàn của chuyên gia S.K. Kitovani tại một tỉnh miền núi phía Bắc năm 1961. (Ảnh tư liệu).
Thứ ba là cần nghiên cứu dải giáp ranh phía Bắc vùng trũng Hà Nội, do các trầm tích Trias hướng biển, duyên hải và lục địa tạo nên. Tiến hành hàng loạt các lộ trình khảo sát ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Thứ tư là giao một phần nhiệm vụ này cho Liên đoàn lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1/500.000 thực hiện. Thứ năm là giao cho Viện Nghiên cứu khoa học địa chất Thăm dò Dầu mỏ toàn Liên bang và Viện Địa chất toàn Liên bang phân tích bitum và nghiên cứu xác định các hoá thạch của các trầm tích Cổ sinh và Trung sinh - Tân sinh. Thứ sáu là căn cứ vào kết quả nghiên cứu năm 1959, hoạch định những biện pháp tiến hành công tác nghiên cứu, tìm kiếm dầu khí tiếp theo.
Trên cơ sở bản kế hoạch này, Chính phủ Việt Nam đã có những bước triển khai tiếp theo để năm 1961 cho ra đời bản báo cáo “Triển vọng Dầu khí ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” nhằm định hướng một cách khoa học cho công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí sau này.
Cuộc gặp ở ga Hàng Cỏ
Năm 1959, Chính phủ Việt Nam đã cho phép Tổng cục Địa chất ký hợp đồng số 9431 với Bộ Địa chất Liên Xô về nghiên cứu địa chất, đánh giá triển vọng dầu khí ở Việt Nam. Hợp đồng trên được bắt đầu triển khai từ ngày 27/6/1959, với việc thành lập Đội khảo sát nghiên cứu địa chất dầu khí bao gồm: chuyên gia S.K. Kitovani, kỹ sư trưởng địa chất khu vực về dầu mỏ, cán bộ địa chất Nguyễn Giao, Trần Văn Trị, Nguyễn Bá Nguyên, Nguyễn Đức Lạc,...
Tháng 6/1959, chuyên gia S.K. Kitovani sau hành trình nhiều nghìn km bằng tàu hoả đã đến ga Hàng Cỏ (Hà Nội). Ra đón ông có các cán bộ địa chất Trần Văn Trị, Nguyễn Giao và một số người liên quan. Những người Việt và một người Nga gặp nhau trong sự hân hoan, và hy vọng về một sự hợp tác có kết quả tốt đẹp. Cuộc gặp ở ga Hàng Cỏ đánh dấu một cột mốc lịch sử cho sự ra đời của bản báo cáo triển vọng dầu khí đầu tiên của nước ta. Sau cuộc gặp đó, gần như ngay lập tức, họ bắt tay vào công việc với những trang thiết bị rất đơn giản, thiếu thốn.
Ông Trần Văn Trị (bên trái), ông Nguyễn Giao (bên phải) đón chuyên gia Kitovani ở ga Hàng Cỏ, Hà Nội năm 1959.
Ông Nguyễn Giao (người sau này trở thành Tổng Giám đốc Liên doanh Vietsovpetro) kể lại trong cuốn Lịch sử Dầu khí Việt Nam rằng: “Trang thiết bị kỹ thuật của đội chúng tôi rất đơn sơ gồm các bản đồ địa hình tỷ lệ 1/100.000, búa địa chất, địa bàn, sổ ghi chép, túi đựng mẫu đá và hoá thạch, ba lô địa chất, giày vải để leo núi..., còn quần áo bảo hộ lao động lúc đó chưa được trang bị, chúng tôi có gì mặc nấy... nhưng cũng cố gắng ăn diện càng đẹp càng tốt vì lúc ấy chúng tôi còn trẻ quá! Mỗi chuyến lộ trình khảo sát ngắn nhất là một tuần, dài nhất là gần một tháng. Sau mỗi chuyến lộ trình, cả đội được ở Hà Nội khoảng một tuần để chuẩn bị cho chuyến lộ trình tiếp theo”.
Hỗ trợ đi lộ trình khảo sát cho các chuyên gia có 1 bác sĩ, 2 nhân viên giao tế phục vụ chuyên gia, 2 công an bảo vệ và dẫn đường, 2 lái xe, 2 xe Com-măng-ca của Đoàn xe 12 Cục Chuyên gia. Ròng rã hơn một năm trời, từ tháng 7/1959 đến tháng 8/1960, chuyên gia S.K.Kitovani và các cán bộ Việt Nam đã triển khai khảo sát thực địa từ vĩ tuyến 17 trở ra, qua các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, trung du, đồng bằng, hải đảo, dọc theo núi cao, suối sâu...
Bản đồ phân vùng triển vọng dầu khí tại miền Bắc Việt Nam của chuyên gia S.K.Kitovani.
Trong báo cáo sau này của chuyên gia S.K.Kitovani có viết: “Trong giai đoạn từ tháng 7 năm 1959 tới tháng 8 năm 1960, chúng tôi đã hoàn thành 11 các lộ trình khảo sát trên lãnh thổ Việt Nam với tổng chiều dài gần 25 nghìn km. Đã hoàn tất việc ghi chép tỉ mỉ hơn 1.000 điểm lộ vỉa, đã tìm ra và chọn lựa xong hệ động thực vật của các kỷ Thượng sinh, Trung sinh và Tân sinh tại hơn 90 các điểm khác nhau”.
Triển vọng ở vùng bồn trũng sông Hồng
Sau rất nhiều sự gian khổ và cố gắng, một bản báo cáo dày 302 trang được chuyên gia S.K.Kitovani và các cộng sự Việt Nam hoàn thành vào tháng 4/1961. Bản báo cáo được đánh máy bằng tiếng Nga, kèm theo các bản vẽ về các mặt cắt địa chất, cột địa tầng đặc trưng cho từng vùng, bản đồ tướng đá, cổ địa lý cho từng thời kỳ, bản đồ phân vùng kiến tạo địa chất và đặc biệt là bản đồ phân vùng triển vọng dầu khí nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tỷ lệ 1/500.000. Trong bản báo cáo ấy, có hai phần quan trọng được chia ra, đó là địa chất và dầu khí. Trong đó, phần địa chất gồm các vấn đề địa tầng, kiến tạo, tướng đá, cổ địa lý, lịch sử địa chất và phân vùng kiến tạo miền Bắc Việt Nam. Còn phần dầu khí xem xét các vấn đề: các dấu hiệu dầu mỏ trực tiếp và gián tiếp, đặc điểm địa hoá, môi trường các bể trầm tích theo từng thời kỳ, biến chất và tính chất chứa của đất đá...
Giếng 61 - giếng khoan tìm thấy khí đầu tiên của Việt Nam.
Chuyên gia S.K.Kitovani và các cộng sự Việt Nam đi đến những thống nhất rằng, trên toàn lãnh thổ miền Bắc Việt Nam sẽ được chia thành các khu vực triển vọng, ít triển vọng, không triển vọng và các khu vực cần nghiên cứu tiếp. Trong đó, triển vọng ưu tiên số 1 là bồn trũng giữa núi của châu thổ sông Hồng. Sau đó là khu vực Đông Bắc - Bắc Bộ, bao gồm các trầm tích lục nguyên và lục nguyên - carbonat tuổi Trias (vùng trũng An Châu). Rất nhiều dấu hiệu cho thấy có dầu mỏ tại Việt Nam, tuy nhiên, những người tìm kiếm nó phải chuẩn bị tinh thần sẵn sàng cho một công việc phức tạp hơn. Đó là tìm kiếm dầu khí tại vùng bồn trũng sông Hồng, một vùng có diện tích trên 15.000 km2.
Những nhận định của các chuyên gia trong bản báo cáo triển vọng dầu khí đầu tiên của Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới trong việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại nước ta. Và cũng từ bản báo cáo này, những tổ chức dầu khí đầu tiên đã được thành lập nhằm hiện thực hoá ước mong của Bác Hồ về một nền công nghiệp Dầu khí phát triển tại Việt Nam. Sau rất nhiều thời gian, với hàng trăm giếng khoan, Việt Nam đã tìm thấy khí lần đầu tiên tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình vào năm 1975. Đây là thành quả của rất nhiều năm tháng trường chinh đi tìm lửa trong lòng đất và chứng minh tầm nhìn thiên tài của Bác Hồ. Và từ phát hiện này, những dòng khí thương mại đầu tiên tại mỏ khí Tiền Hải C đã được đưa vào khai thác năm 1981, thay đổi bộ mặt kinh tế của tỉnh Thái Bình, góp phần tự chủ năng lượng cho miền Bắc. Và quan trọng hơn là đã khẳng định được dự cảm thiên tài của Bác Hồ về một ngành Dầu khí vững mạnh của Việt Nam.
Thanh Hiếu