TS Phan Ngọc Trung
PV: Nhìn lại chặng đường gần 50 năm xây dựng và phát triển của Petrovietnam, ông có chia sẻ gì về những đóng góp, thành tựu của lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí (E&P) của Petrovietnam?
TS Phan Ngọc Trung: Trước tiên phải khẳng định, lĩnh vực E&P luôn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của Petrovietnam. Những kết quả, thành tựu E&P đạt được đều mở ra những trang sử mới, giai đoạn phát triển mới và là niềm tự hào của ngành Dầu khí Việt Nam nói chung, của Petrovietnam nói riêng. Từ những m3 khí đầu tiên ở mỏ Tiền Hải C, đến dòng dầu thương mại tại mỏ Bạch Hổ… và rất nhiều các phát hiện, các mỏ và cụm mỏ được đưa vào khai thác tiếp theo đó, một ngành công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, đồng bộ đã được hình thành và phát triển, hiện thực hóa dự báo thiên tài và niềm mong ước của Bác Hồ kính yêu. Chúng ta cứ hình dung, nếu không thể khai thác được những m3 khí và những tấn dầu thô từ lòng đất Tổ quốc tại những thời khắc đó thì liệu lĩnh vực công nghiệp khí, chế biến dầu khí, dịch vụ kỹ thuật dầu khí… có phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Cũng phải nói thêm, bên cạnh việc góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, kế hoạch sản xuất kinh doanh của Petrovietnam, E&P còn có đóng góp trực tiếp giá trị lớn vào ngân sách quốc gia. Dù là trong những ngày đầu đất nước mở cửa hay sau này, dòng ngoại tệ mà Petrovietnam sử dụng thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất kinh doanh, thanh toán quốc tế… đã hỗ trợ đắc lực đối với hoạt động dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước cũng như trở thành “gối đệm” cho thị trường tiền tệ nước nhà. Song song với đó, hoạt động thăm dò khai thác dầu khí còn góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước.
Đặc biệt, lĩnh vực E&P sau thời gian dài hoạt động, phát triển đã có sự tích lũy lớn về kinh nghiệm, tri thức, kiến thức về địa chất, khảo sát thềm lục địa… Đây sẽ là nguồn “tài nguyên” vô cùng quý giá, tạo cơ sở, nền tảng để Petrovietnam có thể tổ chức triển khai nghiên cứu, tìm kiếm, phát hiện và phát triển các dạng năng lượng mới, cũng như loại hình năng lượng tái tạo (NLTT) ngoài khơi đúng theo quan điểm, định hướng Kết luận 76 của Bộ Chính trị mới đây. Bởi lẽ đó, trong tương lai, tôi cho rằng, lĩnh vực E&P vẫn sẽ giữ vai trò, có đóng góp lớn cho ngành Dầu khí Việt Nam, cho Petrovietnam.
PV: Ông nhìn nhận như thế nào về cơ hội và thách thức của lĩnh vực E&P trong bối cảnh xu hướng chuyển dịch năng lượng (CDNL) hiện nay và E&P cần phải làm gì để thích ứng với xu hướng này?
TS Phan Ngọc Trung: CDNL là xu hướng tất yếu, là câu chuyện thời sự mang tính toàn cầu và đang tạo những tác động không nhỏ đến thị trường năng lượng nói chung và ngành Dầu khí nói riêng. Với E&P, có thể thấy đó là việc một số công ty, tập đoàn dầu khí quốc tế tập trung nghiên cứu, đầu tư phát triển các dạng năng lượng mới, NLTT… nhưng một số khác “âm thầm” đẩy mạnh, tăng cường công suất tối đa để khai thác một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất nguồn tài nguyên dầu khí.
Nhìn chung, xu hướng chuyển dịch sang năng lượng sạch, tái tạo đã tạo áp lực lên ngành Dầu khí, lớn nhất là tới lĩnh vực E&P. Nhưng thực tiễn cho thấy, quá trình CDNL đang diễn ra chậm hơn, không như các kịch bản, dự báo được đưa ra trước kia. Hệ quả của nó là tình trạng mất cân đối cung - cầu dầu thô đã xảy ra và là một trong những nguyên nhân đẩy giá dầu lên cao như thời gian vừa qua. Ở một số quốc gia, việc thực hiện lộ trình CDNL đã “vô tình” khiến nguồn lực đầu tư cho E&P giảm, trong khi nhu cầu về dầu khí, các sản phẩm chế biến từ dầu khí vẫn tăng và các nguồn năng lượng mới và NLTT chưa đủ khả năng thay thế. Vậy nên, khoảng 2 năm trở lại đây, đang có sự thay đổi trong việc tiếp cận, thực hiện CDNL ở các nước, ở nhiều công ty, tập đoàn năng lượng lớn trên thế giới, nó không diễn ra “nóng” và vội vã như trước mà được đặt ra theo lộ trình “từ tốn”, thận trọng hơn.
Vị thế, vai trò của E&P trong trung hạn vì thế sẽ không thay đổi. Nhưng để phù hợp và thích ứng với CDNL đang diễn ra, E&P cũng cần phải thay đổi và chấp nhận sự thay đổi. Phải thay đổi để nắm bắt, cập nhật, ứng dụng, áp dụng các công nghệ mới, những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong quá trình tìm kiếm, thăm dò và khai thác các mỏ dầu khí mới, để tham gia hiệu quả, thực chất hơn.
Để làm được điều đó, theo tôi điều quan trọng nhất chính là những người làm E&P và cả những nhà quản lý về dầu khí, các cơ quan có liên quan phải thay đổi tư duy về lĩnh vực để có thể làm tốt hơn, kịp thời quản trị, nắm bắt thời cơ để triển khai các hoạt động phù hợp, hiệu quả nhất nhằm khai thác được nguồn tài nguyên quý giá từ lòng đất. Rồi chúng ta cũng phải biết tận dụng những kiến thức, kinh nghiệm khi thực hiện các dự án dầu khí ngoài biển áp dụng vào việc tìm kiếm, khai thác và sử dụng những dạng năng lượng mới, NLTT ngoài khơi như phong điện, sóng biển ngoài khơi…
PV: Tại Việt Nam, bên cạnh sự suy giảm sản lượng tự nhiên của các mỏ dầu, có một thực tế là trong khi không có nhiều lô, hợp đồng dầu khí mới được ký kết thì lại đang có nhiều hợp đồng dầu khí chuẩn bị hết hạn. Ông nhìn nhận câu chuyện này như thế nào?
TS Phan Ngọc Trung: Đây thực sự là bài toán khó đối với tập thể lãnh đạo và đội ngũ những người làm E&P của Petrovietnam. Tập đoàn vẫn phải bảo đảm chỉ tiêu sản lượng khai thác hằng năm trong bối cảnh các mỏ dầu chính, chủ lực đều đã khai thác nhiều năm, đang trong giai đoạn suy giảm tự nhiên 10-15%/năm, bước vào giai đoạn cạn kiệt. Rồi rất nhiều hợp đồng dầu khí sắp hết hạn, nếu không kịp thời gia hạn thì có thể dẫn đến tình trạng gián đoạn khai thác, qua đó ảnh hưởng đến sản lượng khai thác hoặc dẫn đến những khoảng trống pháp lý nếu tiếp tục hoạt động khai thác.
Không gian, vùng khảo sát, tìm kiếm thăm dò dầu khí cũng ngày càng khó khăn, phức tạp, mà để giải quyết vấn đề đó thì một mình Petrovietnam khó lòng làm được.
Hạ thủy và lắp đặt giàn nhẹ BK tại mỏ Bạch Hổ
PV: Vậy theo ông, chúng ta sẽ phải giải quyết câu chuyện này như thế nào?
TS Phan Ngọc Trung: Tôi cho rằng, điều quan trọng nhất vào lúc này là cơ quan quản lý cần phải sớm nhất, nhanh nhất cụ thể hóa những cơ chế, chính sách thuận lợi theo quy định của pháp luật hiện hành để tạo điều kiện cho Petrovietnam, lĩnh vực E&P hoạt động.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tìm kiếm được các phát hiện mới, các mỏ dầu khí mới tại Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào đổi mới, áp dụng khoa học công nghệ, ý tưởng mới trong triển khai công tác tìm kiếm thăm dò. Việc Petrovietnam có 2 phát hiện mới tại là mỏ Bunga Aster và đối tượng, vỉa mới tại mỏ Rồng đã chứng minh được tính hiệu quả, đúng đắn của hướng đi đó. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với lĩnh vực E&P khi các mỏ chính, chủ lực nhiều năm nay được vận hành, khai thác trong điều kiện suy giảm tự nhiên ở mức cao.
Và một điều hết sức quan trọng, trong khi chúng ta chưa có được các phát hiện mới, chưa ký được các hợp đồng dầu khí, chưa có được các dòng dầu khí thương mại mới thì việc tiếp tục duy trì hoạt động khai thác của các lô, mỏ dầu hiện hữu là rất cần thiết. Khi hợp đồng dầu khí với các đối tác hết hạn, những lô, mỏ đó vẫn còn tiềm năng khai thác hoặc có thể phát hiện thêm tài nguyên dầu khí thì các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải cân nhắc kỹ lưỡng để xem xét việc ký mới hoặc gia hạn hợp đồng, không để gián đoạn khai thác, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng khai thác về sau và hiệu quả kinh tế của dự án. Việc này phải thực hiện kịp thời, tránh tạo ra khoảng trống về mặt pháp lý khi vừa hết hạn hợp đồng phải có hợp đồng mới hoặc gia hạn ngay.
Petrovietnam vẫn phải bảo đảm chỉ tiêu sản lượng khai thác hằng năm trong bối cảnh các mỏ dầu chính, chủ lực đều đã khai thác nhiều năm, đang trong giai đoạn suy giảm tự nhiên 10-15%/năm, bước vào giai đoạn cạn kiệt.
PV: Theo ông, việc gia hạn hợp đồng dầu khí mới hay ký hợp đồng mới sẽ có lợi ích hơn trong thời điểm hiện nay?
TS Phan Ngọc Trung: Theo ý kiến cá nhân tôi thì hầu hết các lựa chọn đều có ưu, nhược điểm riêng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và cần phải xem xét.
Với việc kéo dài hợp đồng hiện tại, về ưu điểm có thể tiết kiệm thời gian và chi phí hoạt động, tận dụng kinh nghiệm và năng lực của đối tác hiện tại cũng như giảm thiểu rủi ro về mặt kỹ thuật, môi trường và an ninh. Tuy nhiên, lại có nhược điểm là dẫn đến thiếu cạnh tranh khi bỏ qua các cơ hội hợp tác với những đối tác mới có công nghệ tiên tiến và điều khoản hợp đồng tốt hơn. Bên cạnh đó, do nhu cầu về dầu khí, công nghệ khai thác và quy định pháp luật thời điểm hiện tại không phù hợp với hợp đồng cũ.
Việc ký kết hợp đồng mới có thể mở ra cơ hội hợp tác với các đối tác có công nghệ tiên tiến hơn, năng lực tài chính mạnh hơn, các điều khoản hợp đồng hấp dẫn hơn, phù hợp với tình hình hiện tại và các mục tiêu phát triển. Ngoài ra sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác, thúc đẩy đầu tư và nâng cao hiệu quả khai thác. Nhưng ở chiều hướng ngược lại, việc ký hợp đồng mới khiến chủ mỏ và các đối tác mất thêm thời gian và chi phí cũng như sự rủi ro khi hợp tác với các đối tác mới chưa có kinh nghiệm khai thác tại khu vực này hoặc năng lực không đáp ứng đủ yêu cầu. Khi kết thúc hợp đồng hiện tại để ký kết với các đối tác mới còn có khả năng gây tranh chấp đối với đối tác hiện tại dẫn đến các hệ lụy ảnh hưởng đến quá trình khai thác.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể xem xét khi kết thúc hợp đồng, nước chủ nhà sẽ tự thực hiện khai thác lô, mỏ đó. Điều này có ưu điểm là nước chủ nhà có quyền kiểm soát hoàn toàn quá trình khai thác từ việc lựa chọn công nghệ, quản lý nhân sự, bảo đảm an toàn, bảo vệ môi trường và đặc biệt bảo đảm chủ quyền quốc gia ở một số vị trí quan trọng. Với việc tự khai thác, nước chủ nhà được hưởng toàn bộ lợi nhuận từ hoạt động này, có thể tạo ra việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và nâng cao năng lực kỹ thuật cho nguồn nhân lực tại chỗ.
Phương án này cũng có nhược điểm, đó là nước chủ nhà trong một số trường hợp có thể chưa làm chủ được toàn bộ quy trình công nghệ, cần kinh nghiệm và năng lực trong việc khai thác dầu khí, dẫn đến hiệu quả khai thác thấp, chi phí cao, rủi ro về an toàn và môi trường. Cùng với đó là cần đầu tư lớn để mua sắm, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện khai thác. Và khai thác dầu khí cũng mang lại rủi ro lớn về hoạt động tài chính nếu như công tác quản trị không tốt.
TS Phan Ngọc Trung: Phải nhanh chóng, kịp thời gia hạn, ký mới các hợp đồng dầu khí
PV: Vậy theo ông, cơ quan quản lý nhà nước, đại diện nước chủ nhà cần phải ứng xử như thế nào để thúc đẩy quá trình này, tránh tình trạng gián đoạn khai thác hoặc tạo ra các khoảng trống pháp lý trong thực hiện các hợp đồng dầu khí?
TS Phan Ngọc Trung: Việc cân nhắc quyết định gia hạn hợp đồng, ký mới hoặc giao để nước chủ nhà tự thực hiện khai thác là một quá trình chuẩn bị trước ít nhất 2-3 năm. Đây là khoảng thời gian đủ để nước chủ nhà tiến hành các nghiên cứu, đánh giá, phân tích, tìm kiếm đối tác mới cũng như công tác đàm phán và ký kết hợp đồng mới.
Việc chuẩn bị trước cũng giúp bảo đảm hoạt động khai thác diễn ra liên tục, tránh gián đoạn sản xuất. Cùng với đó, nước chủ nhà có đủ thời gian để nghiên cứu thị trường, lựa chọn các đối tác phù hợp, đàm phán các điều khoản hợp đồng tốt hơn, điều chỉnh hợp đồng phù hợp với tình hình hiện tại và hoàn thành các thủ tục pháp lý cần thiết.
Bên cạnh đó, thời gian chuẩn bị cho việc gia hạn, ký mới các hợp đồng cũng cần phải dựa theo độ phức tạp của dự án, mối quan hệ đối với đối tác hiện tại cũng như tình hình thị trường dầu khí hiện tại.
Theo phân tích trên thì không có lựa chọn nào tốt nhất cho mọi trường hợp, nước chủ nhà cần phải phân tích kỹ lưỡng các yếu tố liên quan để đưa ra quyết định phù hợp nhất đối với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Trong quá trình này, nước chủ nhà cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước được giao nhiệm vụ cần phải/bắt buộc phải tham khảo ý kiến của những chuyên gia dầu khí, những cán bộ đã và đang trực tiếp làm tại các dự án và những luật sư chuyên sâu về năng lượng/dầu khí. Đó là những người đã nắm bắt, hiểu rõ những vấn đề liên quan đến thực trạng khai thác của dự án để có những ý kiến phản hồi tốt nhất, từ đó mới đưa ra được những quyết sách phù hợp đối với dự án.
Ngoài ra, nước chủ nhà, các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần phải xem xét, vận dụng Luật Dầu khí năm 2022 để đàm phán, bổ sung các điều khoản có lợi trong hợp đồng để giúp nước chủ nhà tối ưu hóa quyền lợi quốc gia, nâng cao hiệu quả khai thác, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!
Trong khi chúng ta chưa có được các phát hiện mới, chưa ký được các hợp đồng dầu khí, chưa có được các dòng dầu khí thương mại mới thì việc tiếp tục duy trì hoạt động khai thác của các lô, mỏ dầu hiện hữu là rất cần thiết.
Thanh Ngọc