Nhà máy nhiệt điện than không chuyển đổi nguyên liệu, thu giữ CO2 sẽ "nghỉ hưu" ở tuổi 40
Nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ
Đối với các nhà máy nhiệt điện than do EVN quản lý, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN cho biết, hiện EVN đang quản lý, vận hành 15 nhà máy nhiệt điện than với 36 tổ máy có tổng công suất đặt 12.633 MW, trong đó có 2 tổ máy đã vận hành trên 20 năm với công suất 600 MW, 4 tổ máy đã vận hành xấp xỉ 40 năm với tổng công suất 440 MW, 4 tổ máy vận hành gần 50 năm với tổng công suất 100 MW. Đến năm 2030 có thêm 4 tổ máy vận hành trên 20 năm với tổng công suất 1.230 MW. Hiện EVN đã và đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và có kế hoạch chuyển đổi với một số tổ máy của nhà máy như: Uông Bí mở rộng (tổ máy S7), Quảng Ninh (S1,S2) với loại nhiên liệu dự kiến sinh khối/ammoniac…
Nguồn điện than là nguồn điện duy nhất mà Việt Nam có thể chủ động điều tiết năng lượng.
Tuy nhiên khó khăn chính là công nghệ đốt trộn Amoniac hiện nay trên thế giới chưa hoàn thiện, mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm. Đặc biệt, chưa có nhà máy nào ở Việt Nam cải tiến, thử nghiệm đồng đốt Amoniac và có đánh giá về tính kinh tế, kỹ thuật và các ảnh hưởng tác động đến con người, môi trường và thiết bị.
Chưa kể đến khả năng cung cấp nhiên liệu ammoniac/sinh khối trong giai đoạn hiện nay của các đơn vị trong nước và trên thế giới còn hạn chế, chưa đảm bảo nguồn nguyên liệu sinh khối, ammoniac để vận hành lâu dài và ổn định…
Trong khi đó ý kiến từ các chủ đầu tư khác như TKV, Tổng Công ty phát điện 1,2,3, cùng các chủ đầu tư khác đều băn khoăn về giá biomass trên thị trường cao hơn giá than, chưa có cơ chế chính sách về hỗ trợ giá chuyển đổi cho nhà máy thực hiện đồng sinh khối, ammoniac để các nhà máy mở rộng thử nghiệm, tìm kiếm đối tác cung cấp nguyên liệu lầu dài và chất lượng, hay như việc chuyển đổi nhiên liệu mới có ảnh hưởng đến công nghệ hiện hữu của nhà máy?
Ở một góc độ khác các chủ dự án nhiệt điện đốt than BOT như: Nghi Sơn 2, Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 2 băn khoăn về vấn đề các điều khoản của hợp đồng mua bán điện đã được ký kết… vậy khi chuyển đổi nhiên liệu giá thành sản xuất sẽ cao hơn giá đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện, vậy thời gian còn lại của hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào, phần chi phí tăng thêm cho chuyển đổi công nghệ, chi phí nhiên liệu chuyển đổi… bên nào phải chịu?...
Ngoài ra còn các khó khăn vướng mắc khác cũng được các chủ dự án nhà máy nhiệt điện đốt than đưa ra như: Vướng mắc về các thủ tục cấp phép liên quan, thủ tục môi trường ở Viêt Nam do chưa có quy định cho loại hình mới này; chi phí đầu tư cải tạo, nâng cấp lớn, giá thành sản xuất điện sẽ có xu hướng tăng và tính hiệu quả kinh tế không cao trong khi tuổi thọ các hệ thống, thiết bị đã qua nhiều năm vận hành sẽ ảnh hưởng đến thời giant hu hồi vốn của dự án…
Ông Ngô Trí Thịnh - Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực - TKV kiến nghị: "Để có thể chuyển đổi thành công nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac, tổng công ty kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương và các cơ quan sớm có lộ trình và các cơ chế, chính sách cụ thể (về quy hoạch vùng nguyên liệu, hỗ trợ tài chính, giá bán điện...) làm cơ sở để các nhà máy nhiệt điện và các đơn vị liên quan triển khai".
Triển khai thực hiện Quyết định 500
Tháng 12/2022, Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tể (IPG), bao gồm: Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italia, Canada, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Na Uy) đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyền đổi năng lượng công bằng (JETP - Just Energy Transition Partnership), trong đó thời gian đạt phát thải đỉnh của Việt Nam vào năm 2030 và phát thải không quá 170 triệu tấn CO2 vào năm 2030 với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế về công nghệ và tài chính".
Ảnh minh họa.
Ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời lỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) tại Quyết định số 500/QĐ-TTg. Trong đó quy định về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và ammoniac với các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành 20 năm khi giá thành phù hợp và dừng các nhà máy tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.
Để triển khai thực hiện các cam kết nêu trên của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 cũng như lộ trình chuyển đổi năng lượng được nêu trong Quy hoạch điện VIII, Bộ Công Thương đã tổ chức họp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, 3 Tổng công ty phát điện 1, 2, 3 cùng các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: “Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu than sang nhiên liệu Biomass và Amoniac cần phải có kế hoạch, lộ trình phù hợp, đảm bảo phát thải CO2 theo lộ trình như đã cam kết của Việt Nam với các đối tác quốc tế, đồng thời phải đảm bảo không ảnh hưởng đến an ninh năng lượng, đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, cần nghiên cứu, đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện tất cả các tác động trong mọi lĩnh vực để xây dựng chương trình, giải pháp cụ thể đảm bảo thực hiện, không gây bất lợi, thiệt hại cho tất cả các đối tượng khi tham gia chuyền đổi nhiên liệu”.
Cuộc họp lần này là dịp để các chủ đầu tư, chủ sở hữu các nhà máy nhiệt điện than không bị động, chủ động đề xuất lên các cấp có thẩm quyền về các cơ chế, chính sách cần có để thực hiện chuyển đổi
Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương đề nghị EVN, PVN, TKV và Chủ đầu tư các NMNĐ đốt than nghiên cứu, đánh giá dựa trên các điều kiên thưc tế của từng nhà máy về thời gian vân hành, đặc tính kỹ thuật để đưa ra giải pháp và lộ trình chuyển đổi phù hợp, đáp ứng các yêu cầu nêu trên với các nội dung: Nghiên cứu, xây dựng Kế hoạch chuyển đổi nhiên liệu than sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và ammoniac để triển khai áp dụng khi đủ 20 năm vận hành, đảm bảo hiệu quả kinh tế của nhà máy; Đối với các nhà máy điện than không thể thực hiện chuyển đổi nhiên liệu hoặc không thu giữ CO2, đề nghị nghiên cứu xây dựng phương án dừng hoạt động khi nhà máy đã vận hành đủ 40 năm.
Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên hoan nghênh, cảm ơn các chủ đầu tư, chủ sở hữu của nhà máy nhiệt điện than đã có nhiều nỗ lực trong việc cung cấp điện trong điều kiện thời tiết cực đoan, các nhà máy thủy điện không phát huy được. Các doanh nghiệp đã nỗ lực rất cao để góp phần bảo đảm nguồn cung năng lượng ở mức chấp nhận.
Bộ trưởng cũng mong các doanh nghiệp sẽ nỗ lực nhiều hơn nữa trong thời gian tới do thời tiết cực đoan có thể kéo dài, các nhà máy nhiệt điện than sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện phục vụ đời sống sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt của người dân, xã hội. Đồng thời, Bộ trưởng cũng đề nghị chủ sở hữu các nhà máy nhiệt điện than rà soát lại phương án để chuẩn bị nguồn nhiên liệu sơ cấp, phục vụ hoạt động của nhà máy trong mọi tình huống.
Đồng thời, Bộ trưởng cũng đề nghị các chủ đầu tư, chủ sở hữu của nhà máy nhiệt điện than thực hiện nghiêm Chỉ thị 29 ngày 2/11/2019 của Thủ tướng và Biểu đồ cung cấp than do Bộ Công Thương ban hành trong các năm.
Cuộc họp đã ghi nhận 11 ý kiến đóng góp đại diện cho 29 nhà máy nhiệt điện than và ý kiến của Thứ trưởng Đặng Hoàng An, Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cùng chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than đã thống nhất việc thực hiện lộ trình giảm phát thải carbon trong các lĩnh vực, đặc biệt lĩnh vực năng lượng. Phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam và phù hợp cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế, điều này đã được thể hiện trong Quyết định 500 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt tổng thể Quy hoạch điện VIII.
Thành Công