Luật đầu tư nước ngoài mới của Cu Ba đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Ngày 29 tháng 3 vừa qua, Quốc hội Cuba đã thông qua Dự thảo Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi. Vì lý do thủ tục nội bộ, Cuba sẽ công bố và ban hành văn bản chính thức trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày Dự thảo Luật được thông qua.

Căn cứ theo Luật mới ban hành, chính sách đầu tư nước ngoài mới của Cuba bao gồm 34 nguyên tắc khái quát và 11 nguyên tắc theo lĩnh vực, trong đó nổi bật gồm có:

1.       Nhìn nhận đầu tư nước ngoài như một nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước trong ngắn, trung và dài hạn. Việc thu hút đầu tư hướng tới các mục tiêu: tiếp cận công nghệ tiên tiến, lĩnh hội được các phương pháp quản lý, đa dạng hóa và mở rộng thị trường xuất khẩu, thay thế nhập khẩu, tiếp cận nguồn tín dụng nước ngoài, tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho nền kinh tế;

2.       Xúc tiến đầu tư nước ngoài trên cơ sở Danh mục các Dự án thu hút đầu tư mở rộng và đa dạng; tập trung xúc tiến theo giai đoạn và lĩnh vực hoặc theo các hoạt động kinh tế có tiềm năng, thúc đẩy sự tham gia đầu tư của các doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia khác nhau; ưu tiên xúc tiến cho các Đặc khu phát triển, khởi đầu với Đặc khu Mariel;

3.       Khuyến khích phát triển các dự án tổng thể nhằm tạo ra sự liên kết trong hoạt động sản xuất;

4.       Định hướng phần lớn hoạt động đầu tư nước ngoài tập trung vào các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu; tháo gỡ khó khăn đối với hoạt động đầu tư tồn tại giữa các khâu, chuỗi sản xuất; tạo điều kiện hiện đại hóa, phát triển cơ sở hạ tầng; đổi mới công nghệ; hướng tới thay thế nhập khẩu và đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước;

5.       Cho phép thành lập các công ty 100% vốn nước ngoài triển khai đâu tư, nhất là trong phát triển hạ tầng công nghiệp;

6.       Góp phần  thay đổi mô hình phát triển và sử dụng năng lượng của đất nước bằng cách tận dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, biogas, biomas (từ ngành công nghiệp mía đường, lâm sản và tận dụng cây gai marabu);

7.       Đảm bảo sự tham gia, trong đó Cuba giữ cổ phẩn lớn hơn trong các liên doanh, liên kết có liên quan tới hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, cung ứng các dịch vụ công, phát triển công nghệ sinh học, thương mại bán buôn và trong ngành du lịch;

8.       Trong kinh doanh có vốn nước ngoài, nhà đâu tư không được thuê nhân công trực tiếp mà thông qua các đơn vị cung ứng nhân lực. Mức lương nhân công được tính toán phù hợp với mức độ công việc, hiệu quả lao động và giá trị gia tăng mà doanh nghiệp thu được. Các mức lương qui định sẽ bị xóa bỏ và thay vào đó, sẽ thiết lập mức lương tối thiếu. Lao động được thuê sẽ hưởng lương cao hơn mức lương tối thiếu. Việc chi trả dịch vụ nhân công sẽ do đơn vị cung ứng nhân lực và doanh nghiệp đầu tư  đàm phán;

9.       Những khó khăn, hạn chế trong lĩnh vực xây dựng không thể kìm hãm được việc triển khai quá trình đầu tư các công trình có vốn đầu tư nước ngoài, bởi lẽ chính đầu tư nước ngoài sẽ đem lại giải pháp tháo gỡ những khó khăn kể trên;

10.  Không cấp phép độc quyền (trong các lĩnh vực dịch vụ) cho các đối tác nước ngoài đối với thị trường Cuba, đảm bảo sự công bằng về  điều kiện kinh doanh đối với tất cả các đối tác;

11.  Không chuyển sở hữu đối với các tài sản nhà nước (liên quan đến an ninh năng lượng, truyền thông…), ngoại trừ những trường hợp đặc biệt vì mục tiêu phát triển và không ảnh hưởng tới nền tảng chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước.

Qua các chính sách khái quát và theo lĩnh vực, những hoạt động được Cuba ưu tiên triển khai kinh doanh với đối tác đầu tư nước ngoài gồm nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực khai thác, chế biến sản phẩm dầu khí và khai khoáng.

Những thay đổi cơ bản của Luật mới so với Luật Đầu tư trước đây (số 77, ban hành năm 1995) có ảnh hưởng đến lĩnh vực dầu khí: Quy định Hội đồng Nhà nước sẽ xem xét thông qua các hình thức kinh doanh có liên quan tới khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo (ngoại trừ các hợp đồng chia sẻ rủi ro); việc quản lý các dịch vụ công và triển khai các công trình công cộng hoặc khai thác tài sản công;

Một số nội dung chính của chế độ thuế đặc biệt được nêu trong chương XII của Luật này, gồm có những điểm nổi bật sau:

1.       Miễn thuế đánh vào lợi nhuận của các dự án đầu tư nước ngoài trong 8 năm đầu tiên và trong trường hợp ngoại lệ xem xét miễn thời hạn dài hơn. Sau thời hạn kể trên, mức thuế áp dụng là 15%. Lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư thì mức thuế bằng 0%. Đối với các dự án liên quan tới khai thác tài nguyên thiên nhiên, mức thuế áp dụng có thể lên tới 50% tùy từng trường hợp cụ thể;

2.       Miễn giảm thuế sử dụng lao động;

3.       Miễn thuế thu nhập cá nhân cho các đối tác nước ngoài trong các liên doanh hoặc phía nước ngoài tham gia trong các hợp đồng liên kết kinh tế quốc tế (được quy định cụ thể trong luật thuế sắp ban hành);

4.       Miễn thuế bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ trong năm vận hành giao dịch đầu tiên, sau đó áp dụng mức thuế 50% đối với các giao dịch bán buôn và cung ứng dịch vụ;

5.       Miễn thuế quan trong quá trình xây dựng dự án;

6.       Áp dụng mức thuế 50% đối với việc khai thác hoặc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

1.       Nhà đầu tư được hưởng những ưu đãi được nêu trong các chương III, V, VIII có những điểm nổi bật như sau:

1.       Được nhà nước bảo hộ, đảm bảo các dự án không bị trưng thu, ngoại trừ những lý do vì lợi ích công hoặc lợi ích xã hội phù hợp với Hiến pháp, các hiệp định quốc tế Cuba tham gia ký kết và pháp luật hiện hành. Trong trường hợp ấy, nhà đầu tư được bồi thường theo giá trị thương mại dựa trên thỏa thuận của hai phía;

2.       Nhà nước đảm bảo nhà đầu tư được tự do chuyển lợi nhuận có được ra nước ngoài bằng đồng tiền tự do chuyển đổi mà không phải chi trả thêm bất kỳ loại thuế, phí nào;

3.       Nhà đầu tư nước ngoài có thể bán hoặc chuyển nhượng các quyền của mình đối với dự án đầu tư cho Nhà nước Cuba, cho các bên trong liên kết kinh doanh hoặc cho bên thứ 3 với sự cho phép của Chính phủ Cuba;

4.       Hoạt động đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của chế độ thuế đặc biệt được Luật qui định;

5.       Nhà nước Cuba đảm bảo duy trì những lợi ích đối với nhà đầu tư nước ngoài và những dự án đầu tư của họ trong suốt thời kỳ như được phê duyệt;

6.       Các qui định mới này được áp dụng đối với các dự án đầu tư vào các khu vực đặc khu phát triển với những điều chỉnh phù hợp với những qui định đặc biệt của các đặc khu kinh tế và không cản trở sự vận hành tại đây.

Chính phủ Cuba hi vọng sau khi Luật đầu tư nước ngoài mới có hiệu lực trong thời gian cuối tháng sau tới đây, sẽ là cú hích cho nền kinh tế Cuba, trong đó có ngành dầu khí. Ngoài ra chính phủ Cuba khyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào khu cảng dịch vụ Mariel. Đây được xem như dự án thí điểm về thu hút đầu tư nước ngoài và sẽ là cơ sở mở ra các hợp tác mới tại các đặc khu kinh tế khác của Cuba.

Đạo luật mới dành ưu đãi đáng kể về thuế cho nhà đầu tư, bao gồm giảm 50% thuế thu nhập (hiện ở mức 30% theo Luật cũ) và miễn thuế 8 năm cho các nhà đầu tư nước ngoài (trước đây áp dụng trong 5 năm đầu). Luật cũng cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài khung pháp lý chặt chẽ hơn, nhằm thu hút nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, việc tuyển dụng nhân viên cho các công ty nước ngoài sẽ được tiến hành thông qua một cơ quan tuyển dụng của Cu-ba.

Cơ quan Đầu tư nước ngoài Cuba cho biết, cơ quan này đang xây dựng một danh mục đầu tư mới, toàn diện hơn và phù hợp hơn với Luật Đầu tư nước ngoài mới dự kiến sẽ có hiệu lực vào tháng Sáu tới. Danh mục đầu tư mới sẽ cung cấp một cái nhìn cụ thể hơn về cơ hội đầu tư trong từng lĩnh vực cũng như mục tiêu của La Habana. Các doanh nghiệp sẽ có cơ hội đầu tư bình đẳng, không phân biệt quy mô doanh nghiệp, với điều kiện họ đưa ra được kế hoạch thích hợp. Cơ quan này cũng nêu rõ rào cản lớn nhất đối với việc thu hút đầu tư chính là chính sách cấm vận kinh tế của Mỹ áp đặt với Cuba nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, cơ quan này khẳng định La Habana sẽ làm hết sức để bảo vệ các nhà đầu tư trước những biện pháp phong tỏa của Washington.

Danh mục vốn đầu tư hiện tại của Cuba được ban hành từ tháng 10/2012 tập trung đầu tư vào các ngành du lịch, dầu mỏ, mía đường và năng lượng tái tạo song thiếu các điều khoản thu hút các nhà đầu tư tiềm năng. Các lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu bao gồm nông-lâm nghiệp, điện tử, lương thực, năng lượng và khai thác mỏ, thương mại, y tế, xây dựng, du lịch và vận tải cũng như các ngành công nghiệp hóa, dược và sinh học. Theo các quan chức cấp cao, nền kinh tế Cuba hiện tại cần đạt được mức tăng trưởng từ 5-7% trong những năm tới, và để đạt được mục tiêu đó thì cần phải có tỷ lệ đầu tư khoảng 20%.

Ngọc Anh