Sản xuất và tiêu thụ
Tiêu thụ năng lượng cơ bản ở Ấn Độ đã tăng gấp đôi giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2012. theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), đất nước có dân số lớn thứ hai trên thế giới, với hơn 1,2 tỷ người vào năm 2013, có tốc độ tiêu thụ năng lượng tăng trưởng khoảng 1,3% mỗi năm kể từ năm 2008. Đồng thời, tiêu thụ năng lượng bình quân đầu người của Ấn Độ bằng một phần ba mức trung bình của Thế giới, và nhu cầu năng lượng sẽ cao hơn trong thời gian tới nếu như nước này tiếp tục phát triển kinh tế mạnh như hiện nay. Báo cáo mới nhất năm 2013, EIA dự báo Ấn Độ và Trung Quốc sẽ chiếm khoảng một nửa nhu cầu năng lượng toàn cầu đến năm 2040, với nhu cầu năng lượng của Ấn Độ tăng trưởng 2,8% mỗi năm.
Năm 2013, Ấn Độ là nước tiêu thụ lớn thứ tư Thế giới đối với các sản phẩm xăng dầu sau Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản, và cũng là nước nhập khẩu ròng lớn thứ tư về dầu thô và sản phẩm dầu mỏ. Khoảng cách giữa khai thác và nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ của Ấn Độ ngày càng tăng, khi nhu cầu đạt gần 3,7 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2013 so với tổng sản lượng khai thác chỉ dưới 1 triệu thùng/ngày. Dự báo nhu cầu về dầu của Ấn Độ sẽ tăng gấp đôi lên 8,2 triệu thùng/ngày vào năm 2040, trong khi sản xuất trong nước sẽ vẫn không tăng ở mức khoảng 1 triệu thùng/ngày. Mức độ phụ thuộc cao vào dầu thô nhập khẩu đã khiến các công ty năng lượng của Ấn Độ đa dạng hóa nguồn cung cấp của họ. Các công ty dầu khí nhà nước của Ấn Độ đã mua cổ phần vốn chủ sở hữu trong các lĩnh vực dầu khí nước ngoài ở Nam Mỹ, châu Phi, Đông Nam Á và khu vực biển Caspian để có được nguồn dự trữ và cung cấp cho sản xuất. Tuy nhiên, đa số nhập khẩu tiếp tục đến từ Trung Đông, nơi mà các công ty Ấn Độ có rất ít đầu tư trực tiếp.
Gần hai thập kỷ sau khi quốc hữu hóa các nguồn tài nguyên hydrocarbon của đất nước trong những năm 1970, chính phủ Ấn Độ đã ban hành các chính sách kinh tế mới trong năm 1991 để thúc đẩy cạnh tranh thị trường mở trên lĩnh vực năng lượng. Chính phủ áp dụng chính sách cấp phép thăm dò mới (NELP) vào năm 1999 cho phép các nhà đầu tư tham gia đấu giá trên các lô thăm dò cho phép doanh nghiệp nước ngoài sở hữu 100% vốn thực hiện. Đầu tư quốc tế vẫn còn tương đối thấp, Ấn Độ đang đấu thầu 46 lô thăm dò, trong đó có 17 trên đất liền, 15 vùng nước nông và 14 lô ở vùng nước sâu. Việc đấu thầu đã chính thức công bố vào tháng Hai năm 2014 và chính phủ Ấn Độ đang tiếp tục xem xét hình thức của hợp đồng dầu khí giữa chính phủ và các công ty. Chính sách hiện tại cho phép các nhà khai thác ưu tiên thu hồi chi phí thăm dò trước khi chia sẻ lợi nhuận với chính phủ.
Hai công ty nhà nước, Tổng công ty Dầu và Khí tự nhiên (ONGC) và Công ty Dầu khí Ấn Độ (OIL), kiểm soát phần lớn các hoạt động sản xuất và lọc dầu ở Ấn Độ. ONGC là công ty sản xuất dầu khí lớn nhất Ấn Độ, chiếm khoảng 69% sản lượng trong nước năm 2012 theo báo cáo hàng năm của công ty. Chính phủ đang dần giảm phần sở hữu trong ONGC để tăng hiệu quả hoạt động, trong khi đó một số công ty tư nhân đã nổi lên như những đối thủ quan trọng trong thập kỷ qua. Cairn India, một công ty con của công ty Anh Cairn Energy, kiểm soát hơn 20% sản lượng dầu thô của Ấn Độ thông qua việc sở hữu cổ phần lớn tại các mỏ ở Rajasthan, Gujarat và lưu vực Krishna Godavari. Công ty tư nhân như Reliance Industries (RIL) và Essar Oil có các nhà máy lọc dầu lớn. Trong khi đó, các công ty dầu khí nước ngoài khác có ít cổ phần trong ngành dầu mỏ Ấn Độ.
Chính phủ đã khuyến khích các công ty trong nước tham gia đầu tư cổ phần vào các dự án khai thác dầu khí nước ngoài để bảo vệ lĩnh vực năng lượng trong nước trước biến động giá thế giới. Các công ty Ấn Độ nắm giữ cổ phần lớn trong lô GNOP ở Sudan, dự án Sakhalin-1 ở Nga, mỏ San Cristobal và Carabobo ở Venezuela. ONGC mua các mỏ dầu quan trọng của đối tác Amerada Hess ở Azerbaijan trong năm 2012. Ngoài ra, ONGC, OIL và RIL đã đầu tư cổ phần các nhà máy sản xuất khí hóa lỏng ở Mozambique, đầu tư cổ phần khí đốt đá phiến sét ở Hoa Kỳ và Canada, đầu tư dầu khí ở Myanmar và các công ty đang tích cực theo đuổi những giao dịch khác ở nước ngoài. Trong năm 2011, một số cơ quan chính phủ đồng ý thành lập một quỹ quốc gia nhằm hỗ trợ về tài chính việc mua lại các cổ phần về năng lượng ở nước ngoài.

Nhập khẩu
Với gần 70% nhu cầu dầu mỏ nhập khẩu từ hơn 8 quốc gia, Ấn Độ là nước nhập khẩu ròng dầu. Phần còn lại 30% được cung cấp bởi việc sản xuất dầu trong nước. Ấn Độ Dương là một tuyến đường vận chuyển chính quan trọng đưa dầu thô từ các nhà cung cấp trong vùng Vịnh Ba Tư và châu Phi tới các thị trường ở châu Á. Đường tàu biển qua vùng biển Ấn Độ nối các huyết mạch lớn như eo biển Malacca và eo biển Hormuz. Phần lớn các cảng dầu Ấn Độ đang nằm ở phía tây của đất nước để nhận lô hàng dầu thô đi qua các tuyến đường.
Tổng cộng, khoảng 62% lượng dầu thô nhập khẩu của Ấn Độ đến từ các nước Trung Đông. Nhập khẩu dầu thô của Ấn Độ đạt gần 3,9 triệu thùng/ngày trong năm 2013. Ả Rập Saudi là nhà cung cấp dầu thô lớn nhất cho Ấn Độ, chiếm 20% kim ngạch nhập khẩu dầu thô. Nguồn lớn thứ hai của nhập khẩu là Tây bán cầu (19%) với đa số là dầu thô từ Venezuela. Châu Phi đóng góp 16% nhập khẩu dầu thô của Ấn Độ. Việc gián đoạn nguồn cung ở một số nước, bao gồm Iran, Libya, Sudan và Nigeria, cùng với sự phụ thuộc ngày càng tăng của Ấn Độ đối với dầu thô nhập khẩu, đã buộc Ấn Độ đa dạng hóa nguồn dầu thô nhập khẩu. Iran chiếm 5,5% tổng nhập khẩu dầu thô của Ấn Độ vào năm 2013, giảm từ 8,3% năm 2011-12 từ kết quả của các biện pháp trừng phạt của Mỹ và châu Âu đối với hàng xuất khẩu dầu của Iran. Ngoài ra, nhà máy lọc dầu Ấn Độ đang cố gắng giảm chi phí nhập khẩu dầu thô bằng cách mua dầu thô giá thấp hơn. Giá dầu thô Trung Đông trong năm qua cao hơn so với giá dầu từ Tây bán cầu, khiến các công ty Ấn Độ nhập khẩu dầu thô nhiều hơn từ châu Mỹ La tinh, chủ yếu là từ Venezuela, Colombia và Mexico.
Công nghiệp lọc dầu
Ngành công nghiệp lọc dầu đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế Ấn Độ, trong đó khu vực tư nhân sở hữu khoảng 38% tổng công suất. Vào cuối năm 2013, Ấn Độ có tổng công suất lọc dầu 4.350.000 thùng/ngày, là nước có khả năng lọc dầu lớn thứ hai ở châu Á sau Trung Quốc. Hai nhà máy lọc dầu thô lớn nhất nằm trong khu công nghiệp Jamnagar ở Gujarat, là cơ sở đẳng cấp thế giới thuộc sở hữu của Reliance Industries. Các nhà máy lọc dầu ở Jamnagar chiếm 29% công suất lọc dầu hiện nay của Ấn Độ và các nhà máy này gần khu vực dầu thô ở Trung Đông giúp giảm chi phí vận chuyển.
Ấn Độ dự kiến tăng công suất lọc dầu của nước này lên 6,3 triệu thùng/ngày vào năm 2017 dựa trên kế hoạch 5 năm hiện nay để đáp ứng nhu cầu trong nước tăng cao và cho xuất khẩu, dự báo này căn cứ trên các dự án được đề xuất đưa vào hoạt động. Hai nhà máy lọc dầu Paradip ở Odisha và Cuddalore tại bang miền nam Tamil Nadu dự kiến đi vào hoạt động vào năm 2015, công suất 420.000 thùng/ngày.
Mặc dù là một nước nhập khẩu ròng dầu thô, Ấn Độ đã trở thành một nước xuất khẩu ròng các sản phẩm từ dầu khí sau khi tập trung đầu tư vào nhà máy lọc dầu được thiết kế để xuất khẩu, đặc biệt là ở Gujarat. Các công ty Essar Oil và RIL xuất khẩu xăng động cơ, naphtha và dầu diesel ra thị trường quốc tế, đặc biệt là Singapore, Saudi Arabia, United Arab Emirates và Hà Lan. Tuy nhiên, chính phủ khuyến khích các công ty tập trung vào việc cung cấp thị trường trong nước trước khi bán ra nước ngoài.
Trần Quang Tùng
(Theo Tapchicongthuong.vn)