Người góp phần sáng chế Summomer
Dù ở bất cứ cương vị nào, PGS-TS Hoàng Văn Quý cũng đều cống hiến hết mình cho sự nghiệp dầu khí nước nhà.

Hoàng Văn Quý là sinh viên Việt Nam đầu tiên được Trường đại học Dầu Hóa Bacu Liên Xô cũ chọn cho học ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý tài liệu dầu khí. Tốt nghiệp đại học năm 1974, rồi làm luận văn tiến sĩ (1985-1989), khi về nước ông luôn tâm niệm phải làm việc gì đó bù đắp lại công lao đất nước. Ý tưởng ấy, tâm niệm ấy mãi theo ông. Vì thế, dù ở bất cứ cương vị nào, PGS-TS Hoàng Văn Quý cũng đều cống hiến hết mình cho sự nghiệp dầu khí nước nhà.

Lạ lẫm xứ người

Hoàng Văn Quý sinh ở miền quê nhãn lồng Hưng Yên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Nhờ học giỏi, thông minh, năm 1968, ông được cử sang Liên Xô học ở Trường Dầu Hóa Bacu thuộc Cộng hòa Azecbaizan, ngành Địa vật lý giếng khoan. Ông may mắn được học ở ngôi trường nổi tiếng về ngành Dầu khí, đây cũng là nơi Bác Hồ đến thăm ngày 23/7/1959 và nói rằng: “…Sau khi Việt Nam kháng chiến thắng lợi, các đồng chí sẽ giúp chúng tôi tìm ra dầu, rồi thì giúp khai thác và chế biến dầu, xây dựng được Khu Công nghiệp Dầu khí như Bacu…”.

Là những sinh viên được chọn lọc học và học là những từ luôn hằn sâu trong bộ nhớ của những du học sinh lúc bấy giờ. Vẻ mặt ông tự hào khi nhắc về thời: “Sinh viên Việt Nam lúc này rất chăm chỉ học hành, lại thông minh; thường xuyên là nước có thành tích học tập dẫn đầu trong các sinh viên nước ngoài học ở Bacu. Có năm, trong 16 sinh viên học ở khoa thì có đến phân nửa sinh viên tốt nghiệp được các giáo sư đề nghị học tiếp lên tiến sĩ”.

Tuy nhiên, thời gian không quá nhiều nên một số cử nhân đành gác lại giấc mộng học tiếp, phải về nước góp chút công sức nhỏ nhoi xây dựng đất nước sau chiến tranh, ông Hoàng Văn Quý, nhiều người thường gọi là Hoàng Quý không là trường hợp ngoại lệ.

PGS-TS Hoàng Văn Quý luôn say mê với việc nghiên cứu khoa học

Năm 1975, ông về làm việc tại Viện Dầu khí Việt Nam đến năm 1985. Là cán bộ khoa học chuyên về nghiên cứu, ông đã cùng cán bộ trong Viện tham gia nhiều đề tài nghiên cứu khoa học quan trọng cấp Nhà nước, đặc biệt là đề tài trong chương trình nghiên cứu 22: “Nghiên cứu cấu trúc địa chất và tiềm năng chứa dầu khí ở khu vực từ  Thuận Hải đến Minh Hải”. Kết quả của đề tài này đã trở thành một trong những tài liệu cực kỳ quan trọng cho hầu hết các công ty thăm dò, khai thác dầu khí ở nước ta.

Sau một thời gian công tác ở Viện, năm 1985, ông sang Bacu làm nghiên cứu sinh, đến năm 1989 về nước tiếp tục công tác ở Viện Dầu khí Việt Nam. Thời gian đó, ông có những chuyến công tác vào miền Nam, nơi mà ông thường xuyên ghé qua là Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro. Biết được một người từng trải trong công tác nghiên cứu dầu khí, có nhiều năm tu luyện ở Bacu, ông Trần Lê Đông (lúc này là Viện phó Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển của Vietsovpetro) mời TS Hoàng Văn Quý về công tác. Ông Đông chân tình: “Cậu vào giúp mình nghiên cứu mảng địa chất và kiêm thêm công tác Đảng…”. Có lẽ, đây là một cơ hội mới, một môi trường mới với nhiều điều hay, hấp dẫn đã cuốn hút ông TS Viện Dầu khí Việt Nam khăn gói xa chốn kinh kỳ để về vùng gió biển Vũng Tàu và gắn luôn cuộc đời từ đó đến nay.

Thiết bị đo cảnh giới trong quá trình khoan Summomer là một ứng dụng rất hiệu quả trong công nghệ khoan giếng khoan dầu khí. Thiết bị nhằm cảnh báo sự va chạm giữa choòng khoan của giếng đang khoan và các giếng kế cận hoặc các giếng tuy ở xa hơn nhưng có nguy cơ bị xuyên thủng khi ở độ sâu thích ứng, đặc biệt là trong quá trình khoan xiên. Khi khoan chèn thêm, khoảng cách giữa các giếng sẽ nhỏ lại.Trong khi khoan với điều kiện mật độ giếng đan dày nguy cơ choòng khoan va chạm hoặc xuyên thủng các giếng lân cận tăng cao. Hoặc khi khoan cắt xiên sự va chạm có thể gây ra các sự cố không thể lường trước, đặc biệt đối với những giếng khoan đang khai thác với lưu lượng lớn.

Năm 1988, lần đầu tiên ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Vietsovpetro phát hiện ra thân dầu trong đá móng nứt nẻ, hang hốc ở mỏ Bạch Hổ – thân dầu đặc biệt, hiếm có trên thế giới với tổng trữ lượng hiện nay lên tới trên 500 triệu tấn dầu và hàng chục tỉ m3 khí. Trước khi có phát hiện này, ngành Dầu khí nước nhà có lúc bi quan đến mức có thể thu hẹp vì không phát triển được nữa. Nhất là giai đoạn 1985-1988, tình hình rất căng thẳng vì sản lượng khai thác quá ít, nhưng sau khi phát hiện ra thân dầu trong đá móng thì sản lượng khai thác dầu khí của Vietsovpetro đã tăng lên chóng mặt, từ 1 triệu tấn/năm, rồi 2 triệu, 3 triệu cho đến con số đỉnh là hơn 13 triệu tấn/năm.

Cũng sau sự kiện này, ngành Dầu khí Việt Nam đã phát hiện thêm 17 đến 18 mỏ khác có thân dầu trong đá móng và hơn 80% sản lượng khai thác đến nay là từ các mỏ dầu trong đá móng nứt nẻ. Sau mỏ Bạch Hổ, hàng loạt mỏ trong đá móng lần lượt được phát hiện, đó là mỏ Đông Nam Rồng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen, Cá Ngừ Vàng, Đông Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi, Nam trung tâm Rồng, Sư Tử Trắng, Hải Sư Đen, Sư Tử Nâu, Hổ Xám Sao, Thăng Long… đã mở ra tiềm năng dầu khí rất lớn, đưa nước ta trở thành một trong những nước xuất khẩu dầu hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.

PGS-TS Hoàng Văn Quý kể: “Hồi đó vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, khi phát hiện ra thân dầu trong đá móng, các chuyên gia ở Vietsovpetro, cả Nga và Việt Nam đều chưa có kinh nghiệm nghiên cứu như tính toán thông số, tính trữ lượng, thiết kế khai thác và đặc biệt là làm thế nào để duy trì áp suất vỉa trong quá trình khai thác. Vietsovpetro đã liên hệ, ngay cả ký hợp đồng dịch vụ với một số công ty, trong đó có Công ty SSI của Mỹ, nhưng đều không thu được kết quả như mong muốn”.

Vượt qua những khó khăn thử thách đang hiện hữu, với tinh thần đam mê nghiên cứu khoa học và tư duy sáng tạo cùng trách nhiệm và tinh thần lao động bền bỉ, tập thể cán bộ kỹ thuật của Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển, dưới sự chỉ đạo của TSKH Trần Lê Đông, sau đó là PGS-TS Hoàng Văn Quý và một số lãnh đạo khác đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu quan trọng như: tính toán trữ lượng, thiết kế khai thác mỏ, đặc biệt là nghiên cứu áp dụng giải pháp bơm ép nước nhằm duy trì áp suất vỉa – giải pháp này đã đem lại hiệu quả cho Vietsovpetro khai thác bổ sung tới hàng chục triệu tấn dầu.

Trong số các công trình quan trọng mà tập thể chuyên gia của Vietsovpetro, dưới sự điều hành trực tiếp của PGS-TS Hoàng Văn Quý đã hoàn thành công trình: “Nghiên cứu giải pháp công nghệ để xác định tham số phục vụ đánh giá trữ lượng và thiết kế khai thác dầu khí trong đá móng nứt nẻ bằng phần mềm BASROC 3.0”. Đây là công trình khoa học – công nghệ tổng hợp bao gồm các nghiên cứu cơ bản, xây dựng và sử dụng công cụ để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong nghiên cứu phục vụ hoạch định và điều chỉnh khai thác mỏ đối với đá móng nứt nẻ.

Bước ngoặt cuộc đời

Từ năm 1991 đến 1999 khi đương chức Phó phòng, Trưởng phòng rồi Viện phó Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển, ông đã trực tiếp và cùng tập thể anh em trong Viện nghiên cứu thành công, đưa vào áp dụng giải pháp trên cho thân dầu trong đá móng mỏ Bạch Hổ. Chính nghiên cứu này đã góp một phần nho nhỏ, thay đổi diện mạo khoa học của Vietsovpetro nói riêng và ngành Dầu khí nói chung.

Người Dầu khí sẽ mãi nhắc tên PGS-TS Hoàng Văn Quý -  người sáng lập và có đóng góp quan trọng cho nghiên cứu xây dựng phần mềm BASROC nhằm tự động hóa xác định các đặc trưng thấm chứa. Năm 1997, phiên bản 2.0 ra đời, nhưng để phần mềm này được ứng dụng thì phải trải qua một quá trình kiểm định từ cả 2 phía Việt Nam và Liên bang Nga.

Năm 2003, trên cơ sở góp ý của Hội đồng khoa học Liên bang Nga, đứng đầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Vendenstein Iu và một số chuyên gia Việt Nam, phiên bản 3.0 của phần mềm BASROC ra đời được áp dụng cho Vietsovpetro và các công ty dầu khí khác như Việt Nga Nhật, Cửu Long, Thăng Long, Hoàn Vũ, Đại Hùng… và đã được các công ty này đánh giá cao, được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chấp thuận để các công ty này áp dụng, phục vụ cho việc nghiên cứu mỏ, tính toán trữ lượng và thiết kế khai thác mỏ. Hiện nay, phần mềm BASROC 3.0 đang được áp dụng dịch vụ nghiên cứu đá móng tiền Cambri của Cộng hòa Sudan. Có thể nói, đó là thành công lớn của tinh thần và trí tuệ trong giới khoa học ngành Dầu khí Việt Nam, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của PGS-TS Hoàng Văn Quý. Công trình được cấp bản quyền năm 2006, đoạt giải Nhất giải Sáng tạo khoa học toàn quốc VIFOTEC năm 2006, Huy chương Vàng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO năm 2007 và Huy chương Đồng tại Triển lãm Khoa học công nghệ thế giới, tổ chức tại Hàn Quốc năm 2008.

Đến năm 1999-2004, PGS-TS Hoàng Văn Quý là Giám đốc Xí nghiệp Địa vật lý giếng khoan thuộc XNLD Vietsovpetro. Ông tâm sự: “Thực sự lúc đầu tôi và nhiều anh em bạn bè hơi lo lắng, ở vị trí hoạt động hoàn toàn mới, không biết bản thân có đảm nhận tốt việc lãnh đạo một đơn vị sản xuất hay không?” Điều lo lắng này hoàn toàn có cơ sở vì từ trước đến giờ ông chuyên làm công tác nghiên cứu khoa học.

Trong thời gian công tác ở Xí nghiệp, phải kể đến công trình quan trọng mà tập thể lao động Xí nghiệp đã sáng tạo nên, đó là máy cảnh giới trong quá trình khoan “Summomer”. Máy được sáng chế áp dụng nhằm cảnh giới, tránh hiện tượng khoan cắt thân giếng đang khai thác, nghe tưởng chừng đơn giản nhưng sự thực không đơn giản chút nào.

Vào những năm cuối thế kỷ XX, với chiến lược khoan đan dày nhằm gia tăng hệ số thu hồi, Vietsovpetro đã gặp nhiều thử thách khi các giếng khoan mới cắt giếng khoan đang khai thác với lưu lượng tự phun đạt tới 700-800 tấn dầu ngày đêm. Đến năm 1999, thách thức này đã dẫn đến nguy cơ “không thể tiếp tục khoan đan dày nếu như các chuyên gia không tìm ra giải pháp ngăn chặn”. Chính đồng chí Nguyễn Văn Tuyến – Phó tổng giám đốc Vietsovpetro lúc bấy giờ giao nhiệm vụ cho Xí nghiệp Địa vật lý giếng khoan phải tìm phương pháp để dự báo và hạn chế việc cắt giếng khoan đang khai thác. Chính sáng chế máy Summomer đã giúp Vietsovpetro tiếp tục khoan đan dày mà không gặp bất kỳ sự cố nào, đảm bảo an toàn trong quá trình khai thác mỏ. PGS-TS Hoàng Văn Quý cho biết thêm: “Với hiệu quả công nghệ và kinh tế lớn, sáng chế Summomer đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế năm 2006”.

Không chỉ có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, PGS-TS Hoàng Văn Quý còn có đóng góp rất lớn trong việc mở rộng giao lưu, hợp tác với giới nghiên cứu khoa học ngành Dầu khí trong khu vực và trên thế giới. Năm 2003, ông tổ chức thành công Hội nghị khách hàng quốc tế “Cơ hội và thách thức” với sự tham dự của hơn 300 đại biểu đến từ nhiều quốc gia như: Mỹ, Nga, Nhật, Anh… mà không sử dụng một đồng kinh phí nào của Nhà nước. Sau đó, ông là Trưởng ban Tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị khoa học quốc tế “Thân dầu trong đá móng nứt nẻ” lần thứ nhất (2006) và lần thứ hai (2008) tại Vũng Tàu với sự tham dự của hơn 700 đại biểu là nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu trong ngành Dầu khí của nhiều quốc gia trên thế giới.

Vừa làm khoa học, vừa làm quản lý nhưng PGS-TS Hoàng Văn Quý không để tâm hồn khô cứng với những thông số kỹ thuật, mà ông cũng có những giây phút lãng mạn, thăng hoa nghệ thuật. Ông cùng nhạc sĩ Phan Huấn sáng tác nhiều bài hát ca ngợi non sông, đất nước, ca ngợi những con người ngày đêm góp phần thắp sáng biển khơi. Có lẽ đó là những giây phút dung hòa giữa thơ ca và đời thường để tâm hồn ông tĩnh lặng, rồi tiếp tục hành trình mới, khám phá nhiều điều mới lạ trong nghiên cứu khoa học.

Hiện giờ PGS-TS Hoàng Văn Quý đang là Chủ nhiệm Dự án nghiên cứu chung Việt Nam – Cộng hòa Sudan về mỏ dầu trong đá móng nứt nẻ – hang hốc ở Sudan. Tầm vóc của nó không chỉ dừng lại ở việc thu hồi nguồn tài chính lớn mà quan trọng hơn là “màu cờ sắc áo”, “trí tuệ, tầm vóc, con người Việt Nam”. Chúc cho các công trình tiếp theo của ông thành công và góp phần tăng sản lượng khai thác dầu của Vietsovpetro nói riêng và ngành Dầu khí nước nhà nói chung. Và bây giờ, sau khi về hưu, ông vẫn tiếp tục hành trình nghiên cứu khoa học khi về làm chuyên gia của Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Việt Nam (PVEP). Cứ thế, hằng tuần, những chuyến đi về giữa Vũng Tàu – TP HCM trong hành trình công tác – gia đình.

Hơn 35 công tác trong ngành Dầu khí, từng tham gia nhiều công trình nghiên cứu khoa học có tầm chiến lược quốc gia, quốc tế; tham gia nhiều hội nghị khoa học trong nước và trên thế giới, PGS-TS Hoàng Văn Quý rút ra một điều: “Tôi nghĩ rằng, người Việt Nam không thua bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới về trình độ và trí tuệ. Chỉ có điều, chế độ, chính sách của Nhà nước ta dành cho giới nghiên cứu khoa học chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát huy hết tài năng và sức sáng tạo trong nghiên cứu khoa học”. Có lẽ, đó cũng là trăn trở của nhiều người công tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học hiện nay.

PGS-TS Hoàng Văn Quý

Ngày sinh: 25/10/1950Quê quán: Hưng Yên, hiện thường trú tại TP Vũng Tàu

Quá trình công tác:

- 1975-1991: Công tác tại Viện Dầu khí Việt Nam

- 1991-1999: Phó phòng, Trưởng phòng, Viện phó Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển, Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro.

- 1999-2004: Giám đốc Xí nghiệp Địa vật lý giếng khoan, Liên doanh Vietsovpetro.

- 2004-2010 Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển, Liên doanh Vietsovpetro.

- 2010 đến nay là chuyên gia của Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Việt Nam (PVEP)

Khen thưởng:

- Huân chương Lao động hạng Ba giai đoạn 2001-2005.

- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2004, 2007

- Bằng khen của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008)

(Theo Petrotimes)