Hồi ức về một thời đi tìm lửa
Được viết về nguyên Vụ trưởng Vụ Kỹ thuật thuộc Tổng cục Dầu khí - Phan Minh Bích, tôi mừng và tự hào được kể về một trong những người "đi tìm lửa" đầu tiên của ngành Dầu khí.

Ấn tượng và cảm tình trước một người đôn hậu hiền lành, ông đã ở tuổi 85 nhưng minh mẫn và sâu sắc đến từng chi tiết khi nói về những kỷ niệm năm xưa. Mặc dù ông đã về hưu được khoảng 20 năm, nhưng xem ra ông vẫn còn mang nặng nhiều ưu tư với sự nghiệp dầu khí lắm.

Một đời trăn trở vì nghiệp

Thật may mắn khi chỉ sau một lần hẹn tôi đã được gặp ông khi ông vừa trở về sau chuyến gặp mặt lớp cán bộ của Đoàn 36 được tổ chức tại miền Nam, nhân kỷ niệm 30 năm Vietsovpetro. Dáng người cao gầy, tóc bạc trắng, giọng nói nằng nặng của người Quảng Nam ông mời tôi vào căn hộ có phần chật chội ở tập thể D4, Giảng Võ. Căn phòng và đồ đạc có phần đơn giản, khác hẳn với hình dung của tôi, và chắc hẳn là của nhiều người khác nữa về không gian sống của một cán bộ cao cấp trong ngành Dầu khí như ông. Trang trọng nhất trong căn phòng này, có lẽ là tấm ảnh giàn khoan Bạch Hổ sáng lung linh trên mặt biển, được treo ngay lối vào cửa. Lật giở từng trang Báo Năng lượng Mới tôi vừa mang tới biếu, ông đọc chăm chú và rất phấn khởi. Rồi ông bắt đầu câu chuyện của mình.

Năm 1945, Phan Minh Bích theo học tại Trường trung học Nguyễn Văn Khuê ở Sài Gòn. Vốn tính thông minh, ham học hỏi, trải qua thời kỳ đất nước dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, gác lại việc học ông tham gia cách mạng rồi làm tự vệ huyện Điện Bàn và tỉnh Quảng Nam. Nhiều lần bị bệnh nặng tưởng chừng không qua khỏi, nhưng ông đều vượt qua được, để rồi vừa tham gia kháng chiến, vừa dạy con chữ cho nhân dân. Đất nước thống nhất, ông tập kết ra Bắc được điều về Bộ Giáo dục công tác, trở thành giáo viên dạy môn Toán.

Ông trầm ngâm kể: “Thời chiến tranh loạn lạc, chẳng ai có thể tính trước cho mình bất cứ điều gì, nhưng mỗi đời người đều có bước ngoặt định mệnh”. Ông lý giải rằng, chính việc thông thạo tiếng Pháp, lại có nền tảng kiến thức nhất định là lý do đưa ông vào nghiệp “đi tìm lửa”. Khi đó, bên Sở Địa chất (lúc này chưa lên thành Tổng cục) cần một người giỏi tiếng Pháp để phụ trách việc phiên dịch, làm việc với các chuyên gia Ba Lan và Tiệp Khắc (cũ). Thời kỳ đó nước bạn cử người sang nước ta để tổng kiểm tra các mỏ và để kết hợp thăm dò, tìm kiếm mỏ trên miền Bắc. Được gần với chuyên gia nước bạn, ông Bích đã có cơ hội ngàn vàng giúp ông tích lũy được vốn kiến thức hết sức quý giá ấy.

Trải qua nhiều vị trí công tác, chức vụ khác nhau trong sự nghiệp, năm 1956-1957 ông làm Phó đoàn Địa chất thăm dò thiếc tại Cao Bằng rồi làm Đoàn trưởng Đoàn sắt Bảo Hà (Yên Bái). Sau năm 1958, ông được cử sang Liên Xô, hoài niệm về 5 năm học ở nước bạn, ông bảo khó khăn lớn nhất là ngôn ngữ. Ngoài thời gian học trên lớp, chủ yếu ông dành thời gian tự đọc, tự học cùng người bạn thân là đồng chí Nguyễn Thiện Giao, sau này làm Liên đoàn trưởng Liên đoàn Địa Vật lý. Ông kể: “Anh Giao là người rất thông minh, không cần nghe giảng, anh chỉ học kiến thức qua việc đọc sách, thế mà điểm thi luôn đạt tối đa. Hai chúng tôi gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, thân thiết lắm…Tất cả khó khăn, anh em chúng tôi đều vượt qua và luôn mong trở về phục vụ cho đất nước”. Nhắc đến ông Giao, ngừng một chút, đôi mắt ông rưng rưng nhớ về người bạn nay đã khuất.

Ông Phan Minh Bích

Tốt nghiệp Trường Địa chất Mátxcơva, ông Bích về nước với một tâm hồn phơi phới với biết bao dự định. Năm 1963, ông giữ cương vị Đoàn phó Đoàn Dầu lửa 36 của Tổng cục Địa chất. Ngày đó, đất nước còn nghèo đói, thiếu thốn đủ đường nhưng không một ai vì thế mà ta thán. Khi đó, phương tiện làm việc của anh em kỹ thuật chỉ có chiếc máy tính Nisa bằng tay được sản xuất tại Liên Xô. Do công việc tính toán số liệu bằng cách thủ công như vậy nên rất vất vả, nhiều khi anh em phải làm thâu đêm suốt sáng.

Hồi đó có một chuyện mà đến giờ ông và các đồng nghiệp còn nhớ, đó là chuyện… họp. Ở đâu cũng mắc phải “cái nạn họp”, họp triền miên, nhiều khi chẳng có việc gì quan trọng cũng họp. Họp để phổ biến lịch họp, để quán triệt chủ trương, để trình bày nhiệm vụ. Nhưng ông thì luôn tìm mọi cách để anh em trẻ có thời gian và điều kiện trau dồi chuyên môn, đặc biệt chăm lo đến đời sống của đồng nghiệp. Ông nghĩ ra một cách, là “chịu trận” cho anh em tại tất cả cuộc họp. Những buổi họp “vô tiền khoáng hậu” như thế cứ liên tục diễn ra ông đều có mặt, còn các anh em có thời gian làm việc, không phải lo đến chuyện họp.

Ông Bích cười sảng khoái kể: “Nhiều khi ông họp từ sáng đến tối mà khi về chỉ phổ biến cho anh em vài câu là đủ. Phải giữ sức cho anh em, ngoài việc chịu trận ngồi họp thay còn phải lo cho anh em về vật chất. Cái đói khổ, khó khăn trong bối cảnh chung của đất nước mà kiếm thêm được lạng thịt bò, con cá là khó lắm… nhưng cải thiện bữa ăn cho anh em lấy sức làm việc thì tốt hơn”. Suy nghĩ đó của ông cũng là nỗi trăn trở theo ông suốt chặng đường giữ các vị trí chủ chốt trong nghề, ở bất cứ đâu bằng lòng tâm huyết, niềm say mê tìm tòi kiến thức ông vừa truyền đạt, vừa chăm lo đến đời sống cho anh em.

Hành trình tìm lửa trên dải đất hình chữ S

Ở cái tuổi xưa nay hiếm, ông còn mang nặng ưu tư với nghề nghiệp, ngược lại với quan niệm “Lão giả an chi”, ông cho rằng, chính quãng thời gian về hưu là lúc để thực hiện những ấp ủ mà bấy lâu nay chưa làm được, để trả lời những bí ẩn nghề nghiệp một thời mà mình chưa thể lý giải được…

Trước giải phóng miền Nam năm 1975, sau sự kiện phát hiện ra vỉa khí đốt có giá trị công nghiệp tại giếng khoan số 61 Tiền Hải C – Thái Bình. Ông và đồng nghiệp thực hiện khoan tiếp giếng khoan 106 gần đó. Sau khi mũi khoan đạt ngưỡng 3.000m anh em vội báo về công ty tốc độ cơ học của mũi khoan rất nhanh. Ông cùng các đồng nghiệp tức tốc xuống ngay hiện trường thì lửa đã bùng cháy dữ dội. Trước tình hình đó, người dân khu vực phải vội đi sơ tán, đội PCCC của các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Phòng cũng được huy động để ứng phó những tình huống xấu nhất nếu ngọn lửa vẫn tiếp tục bùng phát. Vừa mừng vừa lo, nhận định của hầu hết các chuyên gia là có trữ lượng dầu mỏ dưới giếng, nhưng trước hết phải làm thế nào để giải quyết “ngọn lửa đất” đang bùng cháy dữ dội kia. Với điều kiện kỹ thuật của ta khi đó còn lạc hậu, bối rối khi không xử lý được, dự định mời chuyên gia Liên Xô có kinh nghiệm khắc phục sự cố cháy nổ dầu khí. Liên tục trong 3 ngày 3 đêm thì may mắn dòng khí giảm dần, ngọn lửa tắt tạo điều kiện cho công nhân đổ ximăng vào giếng rồi tiếp tục mũi khoan đến 4.000m. Nhưng mũi khoan đó không phát hiện được vỉa khí có giá trị công nghiệp nào, cán bộ địa chất khi đó không ai lý giải được và cho đến nay bí ẩn đó vẫn là câu hỏi lớn nằm trong tâm trí ông.

Gác lại những băn khoăn, ông tâm sự, chứng kiến và tham gia hàng trăm mũi khoan ở khắp các tỉnh thành và thất bại của giếng khoan 106 tại Thái Bình điều đó cho thấy tại đồng bằng sông Hồng ít có trữ lượng về dầu mỏ, chỉ có duy nhất mỏ Tiền Hải C đem đến lợi ích cho công nghiệp địa phương và người dân nghèo tại Thái Bình. Điều đó là chưa đủ. Ông và mọi người lại tiếp tục bước chân đi tìm lửa ở khắp mọi miền Tổ quốc.

 “Về đồng bằng sông Cửu Long, chúng tôi phải thuê một công ty của Pháp chuyên nghiên cứu về địa, vật lý có tên CGG. Khi đó, anh Trương Minh làm Đoàn trưởng phụ trách, kết quả tìm kiếm thăm dò với công ty bạn phát hiện ra tầng trầm tích Neogen, bao gồm một số tuyến địa chất đến giếng khoan Bạch Hổ (mỏ Bạch Hổ sau này). Kết quả thăm dò của công ty của Pháp cho thấy tầng trầm tích rất mỏng ít có khả năng phát hiện ra dầu khí. Thực tế sau khi khoan được 2 giếng thì không có kết quả, Tổng cục Dầu khí (Đoàn 36 cũ) kết hợp với hội đồng khoa học kỹ thuật dầu khí họp bàn  quyết định sẽ tiến hành tiếp 4 mũi khoan sâu 1.200m nữa, thực hiện được việc này phải huy động thêm rất nhiều kinh phí để đưa thêm trang thiết bị”. Ông đã quyết liệt phản bác lại ý kiến này, ông cho rằng việc làm này không sát với tài liệu thu thập được. Bằng chứng ở kết quả thăm dò địa chất của công ty của Pháp nếu khoan 1.200m mới chỉ “gãi nhẹ” vào tầng Đệ Tam, mà chưa chắc đã có điều kiện tích trữ dầu.

 Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Tổng cục Dầu khí chú ý việc xây dựng cở sở cho việc tìm kiếm thăm dò dầu khí ở thềm lục địa nước ta. Ông Bích được cử sang Na Uy ký hợp đồng về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây dựng nghiên cứu địa vật lý ở xung quanh giếng khoan Bạch Hổ cũ được chính quyền miền Nam đã phát hiện trước đó. Na Uy đã viện trợ xây dựng một trường đào tạo đội ngũ cán bộ cho nước ta, thời gian này ông tham gia giảng dạy và có nhiều đóng góp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ. Trong thời gian công tác, ông hết sức chăm lo công tác đào tạo cán bộ, tranh thủ học hỏi chuyên gia nước bạn để truyền đạt lại kiến thức, kinh nghiệm cho cán bộ ta. Ông đã đề nghị mở các lớp học tại chức tại Trường trung cấp và Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhiều cán bộ nòng cốt và giữ vị trí chủ chốt trong ngành đã trưởng thành từ đó.

Người đưa ra ý kiến với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

Năm 1981, nước ta ký kết hợp tác với Liên Xô trong việc tìm kiếm thăm dò, mở ra một thời kỳ lịch sử của sự nghiệp Dầu khí nước nhà. Khi đó ông là Ủy viên Hội đồng Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro, phụ trách Vụ Kỹ thuật ông tham dự cuộc họp về kế hoạch thăm dò khai thác dầu khí tại nước ta. Cuộc họp dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng cùng các chuyên gia Liên Xô và cán bộ chủ chốt trong ngành diễn ra trong một không khí sôi nổi. Với tâm lý nóng lòng, sốt sắng của đa số người trong cuộc họp đã báo cáo Chủ tịch vào năm 1983, sẽ khai thác dòng dầu đầu tiên tại thềm lục địa Việt Nam. Chẳng thể nào diễn tả được cảm xúc khi đó của mọi người, cả hội trường nhiệt liệt vỗ tay hoan nghênh. Ông Bích kể đến đây, tôi liền xin phép xen ngang để hỏi: “Cảm xúc của bác khi đó thế nào?” Ông trả lời rất khảng khái: “Năm 1983 không thể đủ điều kiện để khai thác dầu khí!”. Bất chấp ý kiến của lãnh đạo Tổng cục Dầu khí và các chuyên gia Liên Xô khi trình bày với Chủ tịch. “Có sự tham dự của Chủ tịch, bác không thấy lo ngại chuyện gì sao?”– Tôi ngạc nhiên hỏi ông.

Đến đây, ông cười rồi kể lại câu chuyện. Nghe chuyện, tôi càng hiểu thêm tính cách của ông rất thẳng và thật, chỉ có thời gian mới kiểm chứng được lời nói đó. Người xưa có câu: “Nói thật mất lòng”, quả đúng như thế, câu nói của ông đã như dội gáo nước lạnh vào hội nghị, giảm độ tin tưởng trong một hội nghị đầy khí thế. Ông đưa ra lý lẽ, và đặt câu hỏi: Dựa vào đâu mà đưa ra cơ sở khai thác dầu khí vào năm 1983? Ông khảng khái cho rằng, đó là căn bệnh báo cáo thành tích với cấp trên trong khi nhân lực, kỹ thuật chưa đáp ứng đủ mà đưa ra báo cáo chủ quan như thế là không có cơ sở. Nếu không theo sự tính toán khoa học, sẽ gây một sự lãng phí cho đất nước. Bằng chứng là hàng trăm mũi khoan ở đồng bằng sông Hồng chỉ có mỏ Tiền Hải C mang lại giá trị công nghiệp cho tỉnh Thái Bình, chính bởi vậy cần một sự tính toán kỹ lưỡng của khoa học kỹ thuật rút kinh nghiệm của những đợt khảo sát trước cần thận trọng và chu đáo hơn mới đạt kết quả tốt được. Sau đó, ông tiếp thêm ý kiến sẽ dành một buổi họp khác để trình bày chi tiết lý do trên báo cáo lên Hội đồng Bộ trưởng nếu được cho phép. Lúc đó, chỉ có một người ủng hộ ông là Tiến sĩ khoa học Vũ Ngọc An, cho rằng ý kiến đó rất thực tế và quan trọng.

Thực tế đã chứng minh ngày 26/6/1986, mới đi vào lịch sử khai thác dầu khí Việt Nam khi Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt – Xô đã khai thác tấn dầu đầu tiên tại mỏ Bạch Hổ từ giàn MSP-1, Việt Nam chính thức nằm trong danh sách các nước khai thác và xuất khẩu dầu thô thế giới. Khi đó mọi người mới nể phục ông, ông bảo rằng, mọi chuyện đều bộc phát do sự nóng lòng giải quyết thật nhanh nỗi khó khăn của đất nước. Nhiều người đã tự đưa ra những dự báo, kế hoạch mặc dù xuất phát từ đáy lòng muốn tìm ra lửa. Phan Minh Bích là thế, đã nghĩ kỹ mới dám nói từ cái tâm và đạo đức nghề nghiệp. Vấn đề nhạy cảm đó, ông bảo đã không ít người bị sốc thế nhưng sự trung thực, lương tri của một người làm trong khoa học đã chứng minh tất cả. Khoa học không thể làm theo cảm tính mà thành công được. Từ hồi còn ở Đoàn 36 ông đã nhận ra rằng, vấn đề địa chất tổng hợp từ nhiều chuyên ngành khác rất phức tạp. Như đã nói ở trên, nó không phải là nơi để con người ta có thể phát biểu một cách chủ quan. Nó cần là những con người say mê, trung thực, dám nghĩ dám làm sẵn sàng đương đầu với thách thức của khoa học, để làm tiền đề truyền đạt cho thế hệ sau mới bền vững được.

Ngọn lửa còn cháy mãi

Dù được học tại những nơi danh giá, cũng chẳng bao giờ là đủ, tấm bằng đại học, theo ông, chỉ nên xem là chứng nhận kiến thức tối thiểu để bắt đầu một quá trình tự học gian nan gấp bội, Lê-nin đã từng nói “Học, học nữa, học mãi” . Bởi thế, đây là một trong những trăn trở triền miên của ông ngay cả khi đã về hưu. Vì thế ông luôn nhức nhối chuyện đào tạo chuyên gia, điều mà theo ông nước ta việc đẩy mạnh công tác đào tạo, sử dụng nhân tài còn hạn chế. Những đóng góp cá nhân cho ngành Dầu khí chẳng bao giờ là đủ, nó quá bé nhỏ, ông chỉ nghĩ một điều: “Nó là cái nghiệp mà mình phải theo suốt cuộc đời…”.

Ông Bích đã tìm đến thứ công việc muôn đời dành cho kẻ có chữ và không bao giờ kết thúc. Nếu những người khác viết sách, giảng dạy, hướng dẫn sinh viên làm luận án hoặc tham gia làm luận án thì ông cặm cụi với việc sưu tầm tài liệu làm từ điển chuyên ngành. Sau nhiều năm chuẩn bị và sau 3 năm làm việc cặm cụi, không quản ngày đêm, ông và các cộng sự tên tuổi như Nguyễn Giao, Trương Minh, Ngô Văn Bưu, Trương Miên… là những tiến sĩ, nhà giáo nhân dân giỏi đã cùng ông làm nên cuốn từ điển quý giá này. Được biên soạn bằng ba ngôn ngữ Anh, Nga, Việt hiện nay là cuốn từ điển được phát hành rộng rãi thu hút sự quan tâm của đồng nghiệp không chỉ trong nước. Khi được hỏi về quá trình biên soạn cuốn sách khá lớn như vậy, đương nhiên phải mất rất nhiều thời gian và sức lực, thì ông nói một cách đại khái không màng đến những khó khăn nhọc nhằn khi tiến hành công việc ở tuổi thất thập cổ lai hy. Với ông, đó là đóng góp chung không của riêng ai cho dầu khí.

Ông chậm rãi lật giở từng trang cho kẻ hậu sinh như tôi chiêm nghiệm xem qua các ký hiệu, những ngôn ngữ chuyên môn dày đặc. Ở đó tôi thầm hiểu đó là một kho tàng kiến thức quý giá của ông và các đồng nghiệp đã dày công cô đọng để lại cho đời. Vậy mà ông kể về những đóng góp của ông xem ra rất khiêm nhường. Theo lý luận của ông, lịch sử không thể được làm nên từ một vài cá nhân… Ông xác định: Không nên so sánh kiểu “trước đây, tôi làm như thế này, bây giờ các đồng chí cũng làm như thế”. Ai làm việc cũng không tránh được thiếu sót, nên khi về hưu cần phải nhìn về quá khứ, nhận những thiếu sót của mình, đó là điều cần thiết để hiểu nhau, tin cậy nhau và cùng nhau đi tới.

Ông đã về hưu được khoảng 20 năm, mặc dù sức khỏe có hạn, hàng ngày trong căn hộ chật chội ông vẫn ngồi lút sau những chồng sách để đọc và nghiên cứu miệt mài như quên hết khái niệm về thời gian. Có lẽ, ở cái tuổi ngoài 80 với những thăng trầm của cuộc đời, của lịch sử nên mọi việc đối với ông thật nhẹ nhàng. Trong suốt câu chuyện ông kể tôi như thấy được cả màu thời gian ngưng đọng trong mỗi sự kiện đã lùi vào rất xa. Ở mỗi cái mốc ấy, ông dừng ánh mắt trầm tư vào bức ảnh mỏ Bạch Hổ như một điểm tựa để lục tìm về ký ức. Dường như có những điều không kể hết bằng lời, mà phải chiêm ngắm, phải cảm nhận rồi suy ngẫm. Trong tâm trí ông, ngọn lửa dầu khí vẫn luôn thôi thúc bừng cháy như ngày nào…

Ông Phan Minh Bích

Ngày sinh: 26/10/1927

Quê quán: Diệu Thọ, Điện Bàn, Quảng Nam

Trình độ chuyên môn: Kỹ sư địa chất

Trình độ chính trị: Tốt nghiệp chính trị Trường Nguyễn Ái Quốc

Từng tham gia các chức vụ:

- Tham gia Việt Minh từ tháng 3/1945

- Đoàn trưởng Đoàn Công tác với chuyên gia Ba Lan và Tiệp Khắc (cũ) khảo sát các mỏ dầu trên toàn miền Bắc

- Đoàn phó, Liên đoàn phó Liên đoàn 36

- Giám đốc Công ty I Thái Bình

- Vụ phó, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch kỹ thuật thuộc Tổng cục Dầu khí.

(Theo Petrotimes)