Bài 1: "Tổng động viên" cho ngành Dầu khí
Những năm sau khi giải phóng miền Nam, cả nước bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tạo động lực phát triển cho đất nước, một yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được một ngành công nghiệp khai thác dầu khí, thực hiện theo mong ước của Bác Hồ.

Bộ trưởng Đinh Đức Thiện thị sát Vũng Tàu trước khi quyết định đặt căn cứ dịch vụ dầu khí tổng hợp tại đây.
Năm 1976, Chính phủ đã bổ nhiệm Trung tướng Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) làm Bộ trưởng phụ trách dầu khí. Ngay sau đó, Tổng cục Dầu khí được giao tiếp quản các cơ sở vật chất và tài liệu của các công ty dầu khí tại miền Nam. Bộ trưởng Đinh Đức Thiện đã có những đóng góp to lớn về chủ trương hợp tác dầu khí với nước ngoài, tạo tiền đề xây dựng cơ sở hạ tầng của ngành dầu khí, đã để lại những dấu ấn mang "cá tính Đinh Đức Thiện" trong lịch sử ngành dầu khí Việt Nam.
Đích thân Bộ trưởng Đinh Đức Thiện đi nhiều địa phương để khảo sát thực địa, cuối cùng ông xác định lấy Vũng Tàu làm nơi xây dựng căn cứ dịch vụ tổng hợp, cảng dầu khí cho Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, cũng như cả ngành dầu khí. Quyết định sáng suốt này tạo tiền đề quan trọng cho những kế hoạch tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí sau này.
Ngành dầu khí là ngành đặc thù, đòi hỏi công nghệ cao, tri thức tổng hợp: Địa chất, vật lý, hóa học, kinh tế học, cơ khí, dịch vụ kỹ thuật ở tầm cao. Công nghiệp khai thác dầu khí là ngành công nghiệp kỹ thuật đòi hỏi những cơ sở hạ tầng lớn, đồng bộ, khoa học. Muốn xây dựng các công trình dầu khí lớn thì phải có những đội quân xây dựng khổng lồ với trình độ chuyên môn, ý chí, với tính kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao. Và nhiệm vụ ấy đã được tin tưởng giao cho quân đội...
Rất may mắn, sau một thời gian tìm kiếm, tôi đã gặp được ông Đỗ Ngọc Ngạn, nguyên là thư ký của Bộ trưởng Đinh Đức Thiện. Như một cái duyên với dầu khí, sau bao năm công tác, ông Ngạn về nghỉ hưu tại một khu phố ở thành phố Vũng Tàu - nơi ngành công nghiệp dầu khí đang lớn mạnh từng ngày. Năm nay tuổi đã ngoài 80, ông Ngạn vẫn giữ được tính cách sôi nổi và hóm hỉnh của một anh Bộ đội Cụ Hồ năm nào. Quê ở Thọ Xuân, Thanh Hóa, tốt nghiệp Khoa Xăng dầu thuộc Học viện Hậu cần Vận tải ở Liên Xô niên khóa 1961-1964, ông Ngạn đã trải qua suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ trong ngành xăng dầu quân đội, hứng chịu bao trận bom khốc liệt của kẻ thù trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Ông đã mang quân hàm Trung tá, giữ chức vụ Tham mưu trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần). Sau này, ông Ngạn công tác ở Tổng cục Dầu khí, làm đến chức Vụ trưởng Vụ Lao động, đến năm 1991 thì nghỉ hưu. Nối tiếp con đường của cha, hai con ông cũng từng là bộ đội và giờ đây cũng đang công tác, phục vụ trong ngành dầu khí. Kể chuyện năm xưa, ông sôi nổi: "Khoảng cuối năm 1975, cuộc họp tổng kết ngành xăng dầu phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh có tướng Đinh Đức Thiện xuống dự. Sau cuộc họp, ông Đinh Đức Thiện nói với Đại tá Phan Tử Quang, Cục trưởng Cục Xăng dầu, Tổng cục Hậu cần: "Cho cậu Ngạn đi với tớ". Thế là sau đó, ông Ngạn ba lô, khăn gói sang làm thư ký cho ông Đinh Đức Thiện. "Mình là người lính, trên điều động đi đâu thì đi chứ chẳng lăn tăn, thắc mắc gì, mặc dù lúc đó, mình đang rất tâm huyết với ngành xăng dầu quân đội".
Chúng tôi được biết, lúc ấy, ngành dầu khí còn nghèo nàn cả về trang bị, vật chất và con người. Ông Đinh Đức Thiện chủ trương lấy người của quân đội sang để làm nòng cốt ban đầu cho ngành dầu khí, đồng thời tuyển chọn trong cán bộ, học sinh để tìm ra những người có đủ trình độ, cử đi đào tạo kỹ thuật dầu khí tại Liên Xô.
"Nhận được chỉ thị của thủ trưởng Đinh Đức Thiện, tôi lập tức đi "ngắm nghía" ở các đơn vị quân đội, để tìm những người thích hợp. Nhiệm vụ của tôi là phải lấy được các cán bộ từ cấp thiếu tá, chỉ huy từ trung đoàn trở lên để làm bộ khung lãnh đạo, chỉ huy cho các đơn vị, xí nghiệp ngành dầu khí. Công tác thẩm tra lý lịch của cán bộ ngành dầu khí được làm kỹ lắm, vì thế, càng chọn được cán bộ quân đội thì càng yên tâm" - ông Ngạn cho biết. Lúc ấy, chủ yếu lấy từ quân đội các cán bộ chính trị, quân sự; kỹ sư trong các lĩnh vực: Xây dựng, địa chất, vật lý; thợ cơ khí, thợ điện, lái xe để tăng cường cho đội ngũ của dầu khí. Cán bộ chỉ huy quân đội sang ngành dầu khí được bổ nhiệm làm đoàn trưởng, đoàn phó, hoặc phụ trách về mảng hành chính; cán bộ chính trị thì làm Bí thư Đảng ủy, Bí thư chi bộ các đơn vị, xí nghiệp.

Đoàn công tác thuộc Tổng cục Dầu khí và cán bộ Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo
ra thăm giàn khoan số 1 mỏ Bạch Hổ (ông Đỗ Ngọc Ngạn thứ 5, từ trái sang).
"Tâm lý nhiều anh em lúc đó thích ở lại bộ đội hơn, vì đã quen người, quen việc mà chế độ đãi ngộ cũng tốt hơn các ngành khác. Cấp trung tá như tôi lúc đó, tiêu chuẩn mỗi tháng là 18kg lương thực, 10 bao thuốc lá... Còn khi sang dầu khí, làm dân văn phòng nên tiêu chuẩn gạo chỉ còn 13kg lương thực (phiếu C) thôi. Hơn nữa, cán bộ cấp chỉ huy nếu ở lại quân đội thì còn cơ hội tiếp tục được thăng quân hàm nữa, còn sang ngành dầu khí, chế độ cũng chưa thật rõ ràng" - ông Ngạn bộc bạch.
Theo lời ông Ngạn, từ khoảng năm 1977 đến năm 1981, đã có rất nhiều cán bộ quân đội được điều sang ngành dầu khí, tiêu biểu là: Trung tướng Nguyễn Hòa, Tư lệnh Quân đoàn I chuyển sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí; Thiếu tướng Tô Ký, Chính ủy - Tư lệnh Quân khu 3 được điều sang làm phái viên Bộ trưởng phụ trách dầu khí ở miền Nam; Đại tá Đặng Quốc Tuyển, Phó chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng Kinh tế (Bộ Quốc phòng) kiêm Tư lệnh Binh đoàn 14 chuyển sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí, phụ trách mảng cán bộ và đời sống; Đại tá Phạm Văn Diêu, Phó chủ nhiệm Tổng cục Xây dựng Kinh tế (Bộ Quốc phòng) sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí phụ trách về xây dựng công trình ngầm, cảng biển; Đại tá Phan Tử Quang, Cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần) chuyển sang làm Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dầu khí phụ trách về xây dựng và lao động; Đại tá Trần Sanh, Phó cục trưởng Cục Xăng dầu (Tổng cục Hậu cần) sang làm Viện trưởng Viện Dầu khí, sau là Chánh văn phòng Tổng cục Dầu khí; Đại tá Trần Thái Vĩnh, Cục trưởng Cục Hậu cần của Quân chủng Phòng không - Không quân chuyển sang làm Giám đốc Công ty Vật tư Vận tải Dầu khí; Thượng tá Hoàng Lộc, Chủ nhiệm Chính trị Trường Sĩ quan lục quân 1 sang làm Bí thư Đảng ủy Viện Dầu khí, sau làm Bí thư Đảng ủy Tổng cục Dầu khí...
Ông Ngạn còn nhớ rõ, ngày ấy, cán bộ quân đội có "uy" lắm, đi đâu cũng được nể trọng, chuyện tưởng khó trăm bề, hóa ra lại được giải quyết rất đơn giản. Các quân nhân chính là những "bảo bối" để giúp ngành dầu khí vượt qua khó khăn trong những buổi đầu gian khó. Một lời nói của cán bộ quân đội lúc ấy có thể tháo gỡ những vướng mắc chưa biết phải xử trí thế nào.
Khi muốn đưa giàn khoan ra ngoài Cồn Thoi - Cồn Ngạn (huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định), yêu cầu đặt ra là phải có phương tiện thủy bởi giàn khoan này nặng đến mấy trăm tấn. Phương tiện thủy để vận chuyển được khối lượng ấy, chỉ có quân đội mới có. Bộ trưởng Đinh Đức Thiện liền viết thư tay ngỏ lời với Đại tướng Võ Nguyên Giáp mong được mượn phương tiện của quân đội để làm nhiệm vụ ấy. Thế là mọi chuyện được giải quyết rất nhanh chóng...
Năm 1981, trong lúc xây dựng tổ chức, cơ sở vật chất cho Liên doanh dầu khí Việt - Xô, yêu cầu đặt ra là phải có hàng vạn thợ với trình độ từ bậc 3 trở lên. Bộ trưởng Thiện lại điện thoại cho đồng chí Võ Văn Kiệt - lúc đó là Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh - đề nghị được tăng cường một số công nhân kỹ thuật. Đồng chí Võ Văn Kiệt đồng ý. Thế là trong suốt mấy tháng ròng, một đoàn xe mang dòng chữ: "Công nhân kỹ thuật tăng cường ngành dầu khí Vũng Tàu", chở cả ngàn công nhân, cứ sáng thứ 2 từ thành phố Hồ Chí Minh ùn ùn kéo xuống Vũng Tàu, rồi chiều thứ 6 lại chở công nhân về.
Bài 2: Chuyện người dầu khí... làm nông dân
Chuyện nghe thật khó tin, ấy thế mà hoàn toàn là sự thật. Cái thời đất nước vừa trải qua chiến tranh, khó khăn, thiếu thốn, cái thời "gạo châu, củi quế" - nghĩa là những thứ bình dị, những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhất cũng trở nên khó kiếm đến mức quý hiếm - thì người dầu khí đã phải làm những công việc của những bác nông dân "một nắng, hai sương".
Trung tá đi cấy lúa
Hồi ấy, ngành dầu khí trong thời kỳ sơ khởi vất vả, gian nan. Vì thế phong trào tăng gia sản xuất, tự bổ sung thêm lương thực, thực phẩm diễn ra ở nhiều đơn vị trong ngành. Để cải thiện đời sống cho cán bộ, người lao động, Tổng cục Dầu khí quyết định thành lập một công ty đời sống, chuyên lo việc trồng trọt, chăn nuôi, tìm các nguồn lương thực, thực phẩm để cung ứng cho cán bộ, công nhân viên và gia đình có con em công tác trong ngành dầu khí.
Bộ trưởng Đinh Đức Thiện luôn lưu ý để "xin" những cán bộ quân nhu của Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) về phụ trách trồng trọt, chăn nuôi. Trung tá Nguyễn Xuân Đại, Trưởng phòng Quân nhu của Cục Quân nhu, Tổng cục Hậu cần được chuyển sang ngành dầu khí làm Giám đốc Công ty Dịch vụ Đời sống Dầu khí chuyên lo "cơm, áo, gạo, tiền", trồng trọt, tăng gia để tăng cường cho anh em mỗi tháng vài cân gạo. Ngành dầu khí mở được hai nông trường: một nông trường trồng sắn và trại nuôi lợn ở Trị An (Đồng Nai), một nông trường trồng lúa ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Lúc đông nhất, công ty đời sống có khoảng 300 người, chủ yếu là các cán bộ, chiến sĩ từ quân đội chuyển sang.
 |
Ông Nguyễn Xuân Đồng thời trẻ.
|
Ông Nguyễn Xuân Đồng, nguyên Phó chánh văn phòng Tổng cục Dầu khí cũng là một cán bộ quân đội chuyển sang ngành dầu khí và đã từng trong đoàn quân đi gieo hạt, trồng lúa ở tận vùng hoang hóa, sông nước Cần Thơ. Ông kể, đó là tháng 4 năm 1979, khi đang là Trung tá, Quyền trưởng phòng Đối ngoại - Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân, ông được điều động chuyển sang Tổng cục Dầu khí. Cùng đợt này với ông còn có 23 cán bộ khác của Quân chủng Phòng không - Không quân chuyển về Tổng cục Dầu khí, trong đó có đại tá Trần Thái Vĩnh, Cục trưởng Cục Hậu cần của Quân chủng, chuyển sang làm Giám đốc Công ty Vật tư Vận tải Dầu khí.
Ông Đồng được điều về Công ty Dịch vụ Đời sống Dầu khí. Lúc ấy, công ty quyết định thành lập nông trường trồng lúa ở Phụng Hiệp (Cần Thơ). Ông nhận được lệnh vào trong nông trường ấy để tham gia trồng lúa, cùng đi với ông có khoảng 50 người nữa. Ông Đồng nhớ lại: "Lúc ấy, lãnh đạo công ty ra lệnh miệng, chứ không có quyết định bằng văn bản, chẳng phân công ai là chỉ huy, cũng chưa biết là đi rồi đến lúc nào thì về. Nhận lệnh là chúng tôi lên đường".
Nhiệm vụ của đơn vị là tham gia Hợp tác xã Ninh Hiệp, huyện Phụng Hiệp, Cần Thơ trồng lúa rồi gửi thóc ra Hà Nội hỗ trợ thêm cho các gia đình cán bộ, công nhân viên ngành dầu khí. Mặc dù, chỉ tham gia đơn vị trồng lúa trong vài tháng, nhưng đó là những kỷ niệm mà ông Đồng không bao giờ quên.
Thuở ấy, sông nước Cần Thơ còn mênh mông, hoang hóa, dân cư thưa thớt lắm. Đội trồng lúa nước được giao hẳn một cánh đồng mút mát tầm mắt để canh tác, làm được bao nhiêu thì làm. Chèo xuồng mãi, cuối cùng đội cũng tìm được một vạt đất cao, rộng khoảng 500m2, thế là anh em quyết định hạ trại ở đó. Tất cả mọi người bủa đi chặt dừa, mượn thêm kèo cột, lấy lá dừa nước để lợp thành những lán trại dã chiến. Từ nơi hạ trại ra được xóm làng gần nhất cũng phải mất nửa ngày chèo xuồng. Cả đơn vị toàn là bộ đội chuyển sang. Là người lớn tuổi nhất, lại mang quân hàm trung tá, quân hàm cao nhất trong đội, nên ông Đồng được mọi người phong là chỉ huy.
Sinh hoạt của đội dã chiến chẳng khác nào bộ đội thời chiến tranh. Không có vật liệu để xây bể nước, đội dùng vại gỗ để hứng nước mưa, ngoài ra, còn dùng nước dừa để đun, nấu. Từ khoảng tờ mờ sáng là báo thức, cả đội đi thuyền gieo sạ trên cánh đồng mênh mông nước. Lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long chịu nước tốt hơn lúa ngoài Bắc. Nước dâng lên đến đâu thì lúa mọc lên đến đó.
Khoảng 5 giờ chiều, sau khi cơm nước xong là tất cả phải vào màn hết, vì muỗi nhiều như châu chấu, nằm trong màn mà quờ tay ra có thể bắt được muỗi. Đội trồng lúa được Tổng cục Dầu khí trợ cấp lương thực thời kỳ đầu khi chưa thu hoạch được lúa. "Cơm đủ no, thức ăn thì bắt được con gì ăn con đó, rau cỏ thoải mái lắm, nhiều nhất là rau muống. Đời bộ đội như thế đã là sướng lắm rồi, vì lúc còn chiến tranh, có khi còn phải chịu đói, chịu khát" - ông Đồng nhớ lại.
Thế rồi, nhờ sự nỗ lực của cả đội, nhờ "trời thương", mùa lúa đầu tiên cho thu hoạch rất khá. Lúa được chuyển ra Bắc, đủ để cung cấp cho mỗi hộ gia đình dầu khí khoảng 5kg thóc/tháng. Được khoảng vài tháng, ông Đồng có lệnh điều động ra Tổng cục Dầu khí. Đơn vị trồng lúa tồn tại khoảng vài năm, sau đó do tình hình cung ứng lương thực ngoài Hà Nội đã khá hơn, nên đã có chỉ đạo ngừng sản xuất để tập trung chuyển sang công tác khác.
Vị đại tá và chiếc áo đi mượn
Thời ấy, cán bộ quân đội rất có duyên với nhiệm vụ lo đời sống cho ngành dầu khí. Chuyện thiếu tướng Tô Ký chạy tiền, lo lương thực cho ngành dầu khí vẫn còn in đậm trong tâm trí của những cán bộ ngành dầu khí thời kỳ đó. Ấy là năm 1977, ngành dầu khí gặp muôn vàn khó khăn, phải "giật gấu, vá vai" để lo đời sống cho người lao động. Được tin thiếu tướng Tô Ký chuẩn bị nghỉ hưu, biết được uy tín và cái chất "anh Ba" Nam Bộ của vị tướng này, Bộ trưởng Đinh Đức Thiện quyết ra Bắc một chuyến để xin Thiếu tướng Tô Ký "đầu quân" vào ngành Dầu khí. Lúc hai "thầy trò" Đinh Đức Thiện, Nguyễn Ngọc Ngạn (lúc đó là thư ký của Bộ trưởng Thiện) vào Tổng cục Chính trị thì vừa hay gặp Trung tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đang đứng ở sân, Bộ trưởng Thiện liền ngỏ lời. Thế là sau đó, ông Tô Ký được điều sang ngành dầu khí theo diện biệt phái, quân đội vẫn trả lương. Mấy năm công tác ở ngành dầu khí, ông Tô Ký trở thành "cây đũa thần", cực kỳ đắc dụng trong việc chăm lo đời sống cho anh em. Ông là phái viên Bộ trưởng Đinh Đức Thiện, được phân công ở miền Nam lo chuyện "chạy gạo, chạy tiền" cho ngành. Ông Tô Ký đi khắp nơi xin lợn, xin gạo, xin thịt để về nuôi công nhân trong ngành. Thời ấy, mang được gạo, thịt từ tỉnh này, sang tỉnh kia đâu có dễ, ấy thế mà mấy anh công an chỉ cần nhìn thấy xe ông của Tô Ký hoặc người lái xe chìa tờ giấy ghi tay, ký tên "Tô Ký" thôi, chẳng có dấu má gì sất, nhưng vì nể trọng nên thường tránh đường cho xe đi.
Nói về cá tính của bộ đội khi giải quyết công việc chung, ông Đỗ Ngọc Ngạn, nguyên Vụ trưởng Vụ Lao động của Tổng cục Dầu khí, kể lại rằng, khó khăn nhất của thời kỳ đầu là phải xây dựng được chế độ, chính sách cho cán bộ, công nhân, người lao động ngành dầu khí. Tuyển được công nhân nhưng lương và phụ cấp không đủ sống thì họ "chạy" thôi. Tổng cục Dầu khí đề nghị nâng lương của cán bộ, công nhân viên ngành dầu khí cao hơn mức đang quy định. Các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đồng ý. Nhưng vẫn có một số ý kiến bên dưới phải đối kịch liệt. Để thuyết phục phía Liên Xô cũng không đơn giản. Khi đàm phán với ông Hatlkin, chuyên gia Liên Xô, ông Phan Tử Quang, Phó tổng cục trưởng đã cởi phăng áo ra ngay giữa cuộc họp và nói: "Tôi là Đại tá quân đội cũng vẫn phải đi mượn áo đây này"! Có lẽ, chuyện phải đi mượn áo để mặc không phải là chuyện hiếm ở một đất nước còn muôn vàn khó khăn thiếu thốn do vừa bước ra khỏi chiến tranh và bị cấm vận như Việt Nam lúc ấy. Sau đó, trước những lý lẽ có tính thuyết phục cao được đưa ra, các bên liên quan đã chấp nhận nâng lương cho cán bộ, công nhân viên dầu khí.

Ông Nguyễn Xuân Đồng và các chuyên gia dầu khí Liên Xô đi thăm Cố đô Huế.
Lại nói đến ông Nguyễn Xuân Đồng, người trồng lúa. Sau khi từ nông trường ở Phụng Hiệp (Cần Thơ) ra, ông công tác tại Tổng cục Dầu khí tại Hà Nội, trải qua nhiều cương vị. Ông về hưu năm 1990 với chức vụ cao nhất là Ủy viên thường vụ Đảng ủy, Phó Chánh văn phòng của Tổng cục Dầu khí. Năm 2011 vừa qua, ông được nhận Huân chương Lao động hạng nhất. Là cán bộ tiền khởi nghĩa, năm 2012 này, ông vừa tròn 65 năm tuổi Đảng. Hiện nay, cả gia đình ông, gồm 3 thế hệ đang ở trong một căn hộ chung cư tại khu tập thể của ngành dầu khí ở đường Thái Thịnh, Hà Nội. Rất tiếc là ông không hề có một bức ảnh nào của thời đi nông trường cho ngành dầu khí. Nhắc đến ảnh, ông cười nói: "Hồi ấy, chân lấm, tay bùn, cốt sao hoàn thành tốt nhiệm vụ, lấy đâu ra máy ảnh mà chụp".
Bài 3: Binh đoàn "dời non, lấp biển"
Chuyện cả một binh đoàn của quân đội đã được điều sang ngành dầu khí để xây dựng căn cứ dịch vụ tổng hợp trên bờ cho liên doanh Vietsovpetro đã trở thành như một huyền thoại trong lịch sử ngành dầu khí. Những con người làm nên huyền thoại ấy hiện nay đang ở đâu?
Cuộc chuyển binh rầm rộ
Sau khi Binh đoàn 318 Dầu khí giải thể, đáng tiếc là ban liên lạc của Binh đoàn chưa được thành lập, nên để tìm được những nhân chứng, tôi đã mất khá nhiều thời gian để liên hệ, tìm kiếm. Phải khó khăn lắm tôi mới tìm được Đại tá Trương Trí Công, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị của Binh đoàn. Chúng tôi cũng đã vào Vũng Tàu để gặp các ông Bùi Xuân Chung, Đào Văn Tự, Phạm Hữu Chức - các cán bộ của Binh đoàn 318 năm xưa và ông Đỗ Trích - nguyên cán bộ của Tổng cục Xây dựng Kinh tế - Bộ Quốc phòng được điều xuống Vũng Tàu giám sát theo dõi việc xây dựng công trình dầu khí do quân đội thực hiện.
Qua câu chuyện của các ông, tôi được biết, sau giải phóng, Vũng Tàu chỉ còn là một vùng đất khá hoang vắng, với những bãi sú vẹt bao quanh rộng hàng trăm héc-ta và hàng chục ngôi biệt thự của Mỹ - ngụy bỏ hoang. Đường vào Vũng Tàu là con lộ 51 ngoằn ngoèo, rộng có 4m, hai bên đường là cỏ lau lút đầu người. Nhưng bằng nhãn quan chiến lược tinh tường, các lãnh đạo của ngành dầu khí khi đó đã chọn Vũng Tàu là địa điểm để xây dựng căn cứ trên bờ của ngành dầu khí. Ngắm nhìn địa thế vùng đất này, Bộ trưởng Đinh Đức Thiện khoanh một vòng tròn lớn trên bản đồ, đánh dấu nơi dự tính sẽ đặt căn cứ. Chỗ đó trên thực địa là một rừng sú vẹt và đầm lầy rộng mênh mông. Nhìn hiện trạng đó, chưa ai hình dung ra bằng cách nào, bằng phương tiện nào, nhất là lực lượng nào để có thể giải phóng mặt bằng rộng lớn và phức tạp ấy. Các công ty bên dân sự chào thua vì không đủ nhân lực và máy móc. Trên quyết định huy động quân đội gánh vác nhiệm vụ gian nan này.

Đồng chí Đỗ Mười đến thăm Binh đoàn 318 Dầu khí Tết Nguyên đán 1982. Ảnh tư liệu.
Thế là một cuộc chuyển quân rầm rộ lập tức được thực hiện. Sư đoàn 318 của Quân khu 4, đang ở Nghệ An thì được lệnh chuyển vào Vũng Tàu để xây dựng căn cứ dầu khí. Sư đoàn 336 đang làm nhiệm vụ ở bên nước bạn Lào cũng được lệnh chuyển về. Tương tự, Trung đoàn 526 (trung đoàn vận tải trực thuộc Bộ Quốc phòng), Trung đoàn 693 (tiền thân là Trung đoàn 4 Công an nhân dân vũ trang - nay là Bộ đội Biên phòng) ở Tây Ninh giáp biên giới với Cam-pu-chia, Bệnh viện 264 (cấp trung đoàn) và một số tiểu đoàn độc lập nữa như: Tiểu đoàn công binh, thông tin... cũng lần lượt được điều về Vũng Tàu. Tất cả các đơn vị nói trên hợp lại dưới một cái tên mới: Binh đoàn 318 Dầu khí (gọi tắt là Binh đoàn 318). Bộ Quốc phòng quản lý quân số, con người, còn nghiệp vụ thì do Tổng cục Dầu khí chỉ đạo. Binh đoàn 318 Dầu khí có vị trí và quyền hạn như một quân đoàn. Nói về quân số của Binh đoàn 318 Dầu khí, các nhân chứng chưa đưa ra con số thống nhất. Có ý kiến nói hơn một vạn quân, có ý kiến nói 2 vạn quân.
Bộ tư lệnh Binh đoàn này gồm: Tư lệnh là Đại tá Nguyễn Cận. Chính ủy là Đại tá Trần Nguyên Độ (sau đó ông Trần Nguyên Độ được phong Thiếu tướng, Tư lệnh kiêm Chính ủy). Phó tư lệnh là: Đại tá Nguyễn Cư, Đại tá Trương Chí Công. Tên giao dịch với bên ngoài của Binh đoàn 318 Dầu khí là: Xí nghiệp Liên hiệp Xây lắp Dầu khí. Cái tên này theo ông Trương Trí Công là có từ quyết định của Tổng cục Dầu khí từ năm 1979. Tư lệnh của Binh đoàn đồng thời là Tổng giám đốc, Phó tư lệnh là Phó tổng giám đốc.
Nhiệm vụ của con cháu Sơn Tinh
Mùa hè năm 1979, các đơn vị của Binh đoàn 318 Dầu khí bắt đầu về đóng ở Vũng Tàu để tiếp quản toàn bộ phần đất mà các đơn vị quân đội trước đây chuyển lại cho Binh đoàn. "Lúc ấy, bộ đội về tràn ngập thị xã Vũng Tàu. Thậm chí có cảm giác, quân còn đông hơn cả dân, đi đâu cũng thấy bộ đội", ông Đào Văn Tự nhớ lại.
Lúc đó, đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo vừa được thành lập. Ngoài nhiệm vụ xây dựng các công trình dầu khí ở Vũng Tàu, Binh đoàn 318 Dầu khí còn xây dựng các công trình quốc phòng khác, đồng thời thực hiện sửa chữa và mở rộng sân bay Cỏ Ống ở Côn Đảo.
Lúc đó, Vũng Tàu chưa có mỏ đá, mà đại công trường cần rất nhiều đá. Binh đoàn 318 liền xây dựng mỏ đá ở hai xã An Ngãi và Phước Tỉnh của huyện Long Đất (nay là huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Mỏ đá ấy tồn tại suốt từ năm 1980 cho đến năm 1993 mới dừng, nó đã góp phần xây dựng cả thành phố Vũng Tàu.
Bộ đội lao động rất vất vả, ăn uống kham khổ, tuy đã được ưu tiên do lao động nặng. Mỗi người được cấp 18kg lương thực/tháng (sau tăng lên thành 21kg), nhưng chủ yếu là gạo cũ, sắn khô và bo bo. Thịt thì tiêu chuẩn mỗi người được 3 lạng/tháng. Từ cán bộ chỉ huy cho tới chiến sĩ đều ăn chung trong bếp tập thể.
Lưng trần trong sình lầy
Vì thời đó, Binh đoàn 318 Dầu khí là các đơn vị chiến đấu mới chuyển sang, chưa hề được cấp các công cụ của một đơn vị làm nhiệm vụ xây dựng, chủ yếu vẫn chỉ là các trang bị cá nhân của chiến sĩ làm nhiệm vụ chiến đấu bao gồm: Xẻng ngắn, cuốc chim, rồi mỗi tiểu đội thì có một chiếc xà beng, một hai chiếc búa... những công cụ để người lính đào hầm, đào hào.

Từ trái sang là các ông Đỗ Trích, Bùi Xuân Chung, Đào Văn Tự, Phạm Hữu Chức (các cán bộ
Binh đoàn 318 Dầu khí) đến thăm cảng dịch vụ dầu khí tại Vũng Tàu - nơi trước đây họ đã
góp sức xây dựng. Ảnh: Quang Phương.
Ông Phạm Hữu Chức nguyên là Thiếu tá, Phó chính ủy Trung đoàn 693 nhớ lại, lúc đó những người làm công tác tư tưởng như ông phải luôn xuống từng trung đội để động viên cán bộ, chiến sĩ vượt qua khó khăn. Ông thường nói với anh em: "Công việc vất vả ngày hôm nay là để góp phần chiến thắng nghèo đói, xây dựng đất nước ngày mai đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, vì thế các đồng chí phải nỗ lực vượt qua khó khăn". Ý chí đã giúp người lính vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời chiến, lại một lần nữa là điểm tựa để họ vượt qua những gian khổ lúc dựng xây đất nước... Về sau, công trường của Binh đoàn 318 Dầu khí mới được cấp một số trang bị tân tiến, phương tiện vận tải cũng đầy đủ hơn. Trong đó, công nghệ búa máy đóng cọc do Liên Xô viện trợ lần đầu tiên được đưa vào sử dụng.
Ở bến cảng lúc đó được xác định là có vòng xoáy của sông Dinh tạo thành túi bùn. Nhưng không ai có thể ngờ túi bùn ấy lại lớn đến thế và có tác hại ghê gớm thế. Nhiều chỗ bùn lầy quá sâu, lúc làm móng phải nối cọc thì mới đủ độ dài cần thiết. Vào mùa mưa dông, có khi mưa xối xả đến mấy ngày, cát dưới đáy biển vận động mạnh, hàng cọc đã đóng xuống bị sức mạnh của thiên nhiên xô lệch hẳn, rồi đất lún khủng khiếp, bao nhiêu đất đổ xuống cũng bị hao hụt dần, thế là lại công dã tràng. Những người chiến sĩ nhìn công trình mất bao mồ hôi, công sức, nay bị hủy hoại mà lòng đau nhói. Sau đó, bằng các biện pháp kỹ thuật, binh đoàn đã khắc phục được các khó khăn, như vậy việc san nền mới xong.
Đến cuối năm 1983, bãi sú vẹt đã được dọn sạch, một phần của cảng cũng đã hoàn tất việc san lấp mặt bằng. Trước yêu cầu của tình hình mới, tháng 11-1983, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký quyết định thành lập Liên hiệp Xây lắp Dầu khí trên cơ sở các đơn vị của Binh đoàn 318 Dầu khí. Binh đoàn 318 Dầu khí giải thể. Cán bộ, chiến sĩ của đơn vị được tham khảo nguyện vọng: Một là nếu tình nguyện thì ở lại làm tại Liên hiệp Xây lắp Dầu khí. Nếu không, Bộ Quốc phòng cho chuyển về quân đội làm công tác khác...
Trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện nay có hơn 4.300 người là cựu chiến binh và cựu quân nhân. Vì thế, cái chất bộ đội trong ngành dầu khí vẫn còn rất đậm. Mỗi khi gặp gian khó, thử thách, cái chất bộ đội mới thể hiện rõ nhất giá trị của mình. Bao hàm trong cái chất ấy chính là tinh thần đoàn kết, tính kỷ luật, chịu khó, chịu khổ, sáng tạo, quyết đoán, can trường, sẵn sàng hy sinh cái riêng vì mục tiêu chung... Công cuộc dựng xây ngành dầu khí vẫn đang được tiếp nối bởi những thế hệ ngày nay. Những người chiến sĩ vẫn đang ngày đêm xây dựng, bảo vệ ngành công nghiệp dầu khí, bảo vệ chủ quyền, thềm lục địa, bảo vệ tài nguyên và nguồn lực phát triển cho đất nước không chỉ cho thế hệ này mà cho cả các thế hệ mai sau.
Hồ Quang Phương
(Theo Quân đội nhân dân)