MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM SAU GẦN 5 NĂM THÍ ĐIỂM HOẠT ĐỘNG

Tiến sĩ:  Đinh La Thăng

Uỷ viên BCH Trung ương Đảng

Bí thư Đảng ủy - Chủ tịch Hội đồng Thành viên

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam

Từ kết quả bước đầu hoạt động thí điểm của các Tập đoàn kinh tếnhà nước ở Việt Nam và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thời gian qua; chúng tôi xin được trao đổi về một số vấn đề rút ra từ thực tiễn của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước Việt Nam sau gần 5 năm thí điểm hoạt động với những nội dung sau:

        Một là: Chủ trương phát triển các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam;

        Hai là: Mô hình và đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam;

        Ba là: Vai trò của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam;

        Bốn là: Vai trò, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các Tập đoànkinh tế nhà nước ở Việt Nam, tổ chức Đảng trong các Tập đoàn;

        Năm là: Một số hạn chế;

        Sáu là: Giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam.

I. Chủ trương phát triển các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá IX) có nêu: “Hình thành một số Tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong nước và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng .v.v.”.

Triển khai thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình Tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005 nhằm thực hiện các mục tiêu:

       - Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, cần phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế;

      - Giữ vai trò bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác;

      - Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong Tập đoàn;

      - Tạo cơ sở để hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về Tập đoàn kinh tế.

II.Mô hình và đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

1. Mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Ở những nước khác nhau trên thế giới, Tập đoàn kinh tế có những cấu trúc khác nhau. Các Tập đoàn kinh tế các nước như Thuỵ Điển, Đức đã trải qua nhiều thay đổi lớn, trong đó quan hệ sở hữu đan xen và cấu trúc hình kim tự tháp dần biến mất. Ở Nhật Bản, các Tập đoàn kinh tế được tổ chức hoặc là theo chiều dọc hoặc là theo chiều ngang và phát triển tuỳ theo các ngành nghề; các tập đoàn gồm một ngân hàng, một công ty mẹ hoặc một công ty thương mại và một nhóm các hãng sản xuất. Ở Hàn Quốc, các Tập đoàn kinh tế thường được kiểm soát bởi một gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc. Ở Đài Loan, các Tập đoàn thường có quy mô nhỏ, liên kết lỏng lẻo giữa các thực thể với các phong cách quản lý nặng về lý thuyết, trái ngược với các phong cách độc đoán, gia trưởng thường thấy ở Hàn Quốc và Nhật bản. Các Tập đoàn kinh tế ở Trung Quốc lại phát triển theo cấu trúc riêng biệt; đó là các Tập đoàn kinh tế đa ngành quy mô lớn có mối ràng buộc chặt chẽ với Nhà nước chứ không phải với các gia đình riêng biệt như ở Hàn Quốc.

Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì Tập đoàn kinh tế là nhóm các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của Tập đoàn kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 Tập đoàn kinh tế nhà nước theo hai mô hình, đó là:

      - Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước(các tổng công ty 90 và 91): gồm 10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hoá chất Việt Nam.

      - Tổhợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: 02 tập đoàn là: (1) Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệpđộc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư Phát triển Xây dựng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng, trong đó Tổng công ty Sông Đà làm nòng cốt; (2)Tập đoàn Phát triển Nhà và Đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực phát triển nhà và đô thị, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và cấp thoát nước, bao gồm: Tổng công ty Phát triển Nhà và Đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng, Tổng công ty Đầu tư Xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam, trong đó Tổng công ty Phát triển Nhà và Đô thị làm nòng cốt.

2. Đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

      - Đượchình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các Tổng công ty Nhà nước theo quyết định của Chính phủ.

      - Hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ mà việc điều hành các Tập đoàn kinh tế cùng tham gia vào việc kiềm chế lạm phát, suy giảm kinh tế trong năm 2008-2009 là minh chứng sinh động.

      - Hoạt động theo mô hình Công ty Mẹ - Công ty con (chuyển từ quan hệ hành chính trong Tổng công ty nhà nước trước đây sang quan hệ về đầu tư vốn); quy mô và khả năng tích tụ vốn có trình độ cao hơn và quy mô lớn hơn so với các Tổng công ty trước đây (trước khi chuyển đổi sang mô hình Tập đoàn); phạm vi hoạt động được mở rộng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài.

      - Hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong Tập đoàn kinh tế được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hoá, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong Tập đoàn kinh tế.

      - Quan hệ nội tại của Tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:

          + Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

          + Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ - công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài;

          + Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo;

          + Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.

          + Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo thoả thuận chung của tập đoàn. Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, doanh nghiệp liênkết.

      - Quan hệ giữa Tập đoàn với Bộ, Ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam: Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại Tập đoàn kinh tế nhà nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ, quyết định tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty mẹ theo đề nghị của Bộ quản lý ngành và ý kiến của các Bộ,Ngànhcóliên quan; Thủ tướng Chính phủ giao Bộ quản lý ngành, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Hội đồng quản trị Tập đoàn thực hiện một số quyền của chủ sở hữu theo pháp luật hiện hành, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng Tập đoàn.

      - Quản lý, giám sát đối với Tập đoàn kinh tế nhà nước được thực hiện theo các phương thức:       

           + Thông qua chế độ báo cáo của Hội đồng quản trị công ty mẹ;

           + Thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên;

           + Thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ;

           + Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.

III. Vai trò của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Sau khi được hình thành và đi vào hoạt động, các Tập đoàn kinh tế đã tích cực đầu tư, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động; cơ cấu lại và đa dạng hoá sở hữu các đơn vị thành viên; kinh doanh đa ngành, trong đó tập trung vào ngành nghề chính; huy động được các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu trọng điểm, các chiến lược phát triển quan trọng; tích cực nghiên cứu, triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, tay nghề của đội ngũ công nhân kỹ thuật và người lao động trong các doanh nghiệp, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành Tập đoàn kinh tế mạnh, có tầm cỡ trong khu vực, làm nòng cốt để Việt Nam chủ động và thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Qua đó, các Tập đoàn kinh tế đã có vai trò tích cực đối với việc phát triển kinh tế đất nước, thể hiện ở những mặt sau:

      - Các Tập đoàn kinh tế đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

      - Đã thực hiện rõ vai trò chi phối, đảm bảo việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế (được thể hiện rõ nhất là trong giai đoạn 2008-2009 khi đất nước phải đối phó với những diễn biến bất lợi và ảnh hưởng xấu từ suy thoái kinh tế thế giới và khu vực đối với nền kinh tế quốc dân), bảo đảm cân đối cung - cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hoá lỏng, than .v.v.) để  bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, chống giảm phát.

      - Là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.

      - Khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao trên cơ sở huy động, tập trung được các nguồn lực, năng lực sản xuất tăng nhanh, đầu tư trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.

      - Thực hiện được sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học - công nghệ, đào tạo và sản xuất kinh doanh.

      - Cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các Tập đoàn kinh tế đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

      - Là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc đảm bảo an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường .

      - Là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.

IV.Vai trò, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các Tập đoànkinh tế nhà nước ở Việt Nam, tổ chức Đảng trong các Tập đoàn

Theo Quy định số 196-QĐ/TW ngày 24/11/2008 của Ban Bí thư Trung ương, tổ chức Đảng trong các Tập đoàn kinh tế nhà nước được tổ chức theo 2 mô hình: Đảng bộ toàn Tập đoàn kinh tế và Đảng bộ Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế.

Tổ chức Đảng toàn Tập đoàn kinh tế được thành lập ở những doanh nghiệp có đủ các điều kiện sau:

      - Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty hạng đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc phê duyệt đồng ý cho thành lập; có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; hoạt động của doanh nghiệp gắn kết chặt chẽ với nhau, phần lớn tài chính, sản phẩm, dịch vụ chính, kỹ thuật, công nghệ của các đơn vị thành viên do tập đoàn kinh tế, tổng công ty chi phối.

      - Các đơn vị thành viên của tập đoàn kinh tế, tổng công ty đóng trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng chi phối không lớn đến nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Đối với đảng bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ hoặc khối doanh nghiệp tỉnh phải có đa số tổ chức đảng trực thuộc đóng trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố.

      - Đã lập đảng bộ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty là đảng bộ mà đảng uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng (hoặc đảng bộ cơ sở mà đảng uỷ được giao quyền cấp trên cơ sở); đa số tổ chức đảng thuộc đảng bộ là tổ chức đảng trong các đơn vị thành viên chịu sự chi phối hoạt động của tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Thực tế hiện nay, đối với các tổ chức đảng trực thuộc Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương, có 4 Đảng bộ toàn Tập đoàn kinh tế (Dầu khí, Hàng không, Đường sắt và Công nghiệp Tàu thuỷ), còn lại là theo mô hình Đảng bộ Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế.

Đảng bộ trong Tập đoàn kinh tế nhà nước có chức nănglãnh đạo và kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức, cán bộ và công tác xây dựng Đảng trong toàn Tập đoàn nhằm tổ chức, giáo dục và động viên cán bộ, đảng viên và người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng Tập đoàn, các đoàn thể quần chúng và đội ngũ công nhân vững mạnh, giữ vững vị trí then chốt của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về phương thức lãnh đạo, tổ chức đảng thực hiện lãnh đạo bằng việc ban hành các nghị quyết, thông qua tổ chức đảng và bằng chức trách, nhiệm vụ của từng đảng viên là lãnh đạo các cấp trong trong Tập đoàn kinh tế nhà nước trong việc thực hiện các nhiệm của Đảng bộ Tập đoàn gồm: Lãnh đạo việc chấp hành chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo việc đề ra và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Tập đoàn; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ; lãnh đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; nâng cao trình độ chuyên môn; lãnh đạo công tác tổ chức xây dựng đảng bộ; lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát và lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội.

Ban chấp hành Trung ương có quy định số 287-QĐ/TW ngày 08/02/2010, trong đó quy định rõ chức năng nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ). Vai trò của Đảng bộ trong Tập đoàn kinh tế nhà nước được xác định là hạt nhân chính trị, lãnh đạo Tập đoàn thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

Đảng bộ toàn ngành trong Tập đoàn kinh tế đã góp phần hoàn thiện việc xây dựng mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị góp phần nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên có không ít những khó khăn thách thức được đặt ra đối với công tác xây dựng Đảng của tổ chức đảng trong Tập đoàn kinh tế trong giai đoạn mới như:

      - Việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hoá một số đơn vị thành viên được đẩy mạnh dẫn đến sẽ tăng số lượng các doanh nghiệp mà Tập đoàn không giữ cổ phần chi phối. Đi liền với thay đổi về tổ chức và hoạt động của của các đơn vị thành viên thì tổ chức đảng trong các đơn vị cũng cần phải có sự thay đổi phù hợp tương ứng cả về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, đó là một thách thức không nhỏ đối với tổ chức đảng trong Tập đoàn.

      - Các thành viên trong các Tập đoàn thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau về quy mô, hình thức sở hữu, tính chất hoạt động, do đó có các tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước (100% vốn, vốn chi phối) còn có tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần có vốn của nhà nước (vốn không chi phối), tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị có vốn liên doanh với nước ngoài.

      - Các đơn vị thành viên của Tập đoàn kinh tế đóng trên nhiều địa bàn khác nhau sẽ là thách thức và ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng và đặc biệt là sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên.

V. Một số hạn chế

Thực tiễn hoạt động của các Tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định thành công bước đầu trong việc thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và mục tiêu thí điểm thành lập Tập đoàn kinh tế nhà nước của Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam còn quá mới mẻ, vì vậy các Tập đoàn kinh tế cũng bộc lộ một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, đó là:

      - Được thành lập, liên kết bằng quyết định hành chính, một số Tập đoàn là biến thể của mô hình Tổng công ty cũ, chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là trở thành Tập đoàn kinh tế mạnh.

      - Quy mô và nguồn vốn quá nhỏ so với các Tập đoàn kinh tế trong khu vực và trên thế giới; tổ chức và hoạt động chưa có đổi mới nhiều so với Tổng công ty nhà nước trước đây, chưa tạo được sự đột phá mạnh mẽ cho mô hình Tập đoàn kinh tế.

      - Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các Tập đoàn kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng của Chủ sở hữu nhà nước đối với các Tập đoàn kinh tế; cơ chế quản lý Tập đoàn còn nhiều bất cập.

      - Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số Tập đoàn chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

      - Việc thực hiện huy động vốn, nguồn lực của các thành phần kinh tế khác vào sản xuất kinh doanh thông qua cổ phần hoá, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty cổ phần mới tạo ra cơ cấu đa sở hữu ở một số Tập đoàn triển khai còn chậm; dẫn tới hạn chế về thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành và sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của Tập đoàn kinh tế.

      - Một số Tập đoàn có tỷ lệ nợ trên vốn còn quá cao, dẫn đến độ rủi ro lớn, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.

      - Một số Tập đoàn chưa phát huy được vai trò chi phối trong lĩnh vực hoạt động. Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm; ở một số Tập đoàn vẫn còn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con.

      - Công tác dự báo, giám sát, đánh giá đối với hoạt động của các Tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của mô hình này.

      - Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên trong các Tập đoàn cần phải được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.

Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, chủ động hội nhập ngày càng sâu và rộng vào kinh tế quốc tế. Do đó, yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độc tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần chủ động tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để chủ động cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời tạo ra những những bước đột phá về kinh tế, bứt khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tế khách quan này và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam đã được khẳng định sau 5 năm hoạt động thí điểm, đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải sớm nghiên cứu hoàn thiện và tiếp tục phát triển mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn mới để có được những Tập đoàn kinh tế Việt Nam mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.  

VI. Giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Hiện nay, các Tập đoàn kinh tế thí điểm hoạt động đang còn lúng túng trong nhận thức đầy đủ về Tập đoàn kinh tế; đặc trưng của Tập đoàn kinh tế; các loại Tập đoàn kinh tế hay các mô hình Tập đoàn kinh tế; địa vị pháp lý của Tập đoàn kinh tế và của các doanh nghiệp liên kết trong Tập đoàn; thương hiệu, điều kiện và các yếu tố tác động đến phát triển của Tập đoàn; vị trí, vai trò của nhà nước trong quan hệ với Tập đoàn.v.v. Để đảm bảo tính bền vững trong phát triển Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Namtrong giai đoạn mới, có đặc thù riêng so với các Tập đoàn kinh tế khác trong khu vực và trên thế giới (là hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước), một số giải pháp chủ yếu cần quan tâm là:

      - Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển các Tập đoàn kinh tế nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

      - Sau một thời gian thí điểm, đặc biệt đã được thử thách qua cuộc khủng hoảng kinh tế 2008-2009, việc tổ chức tổng kết đánh giá kết quả hoạt động để chỉ ra những tồn tại, yếu kém, đúc kết những điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức, tích luỹ những kinh nghiệm tốt từ hoạt động thực tiễn thời gian qua của các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, kết hợp với thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện về các mô hình Tập đoàn kinh tế tiêu biểu trên thế giới để có thể tìm ra một hoặc một số mô hình Tập đoàn kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta, trên cơ sở đó tìm ra hướng đi phù hợp cho các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo là cần thiết và phải được thực hiện nghiêm túc.

      - Nhà nước cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các Tập đoàn kinh tế nhà nước; các Tập đoàn kinh tế nhà nước cần rà soát lại chiến lược phát triển của từng tập đoàn để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới.

      - Tiếp tục kiện toàn công tác quản lý của Nhà nước và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với Tập đoàn. Hình thành mới một cơ quan của Chính phủ quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Thực hiện uỷ quyền tối đa cho Hội đồng thành viên Tập đoàn trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để các Tập đoàn chủ động, quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các vấn đề lớn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư và đấu thầu đối với những vấn đề đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, không để lỡ những cơ hội sản xuất, kinh doanh; thường xuyên sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế tài chính của Tập đoàn cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của Tập đoàn theo từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển.

      - Thực hiện thường xuyên việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chủ chốt; tránh cạnh tranh nội bộ, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu phát triển tương ứng với mô hình phát triển của các Tập đoàn.

      - Nâng cao vai trò, hoàn chỉnh phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên đối với các hoạt động của các Tập đoàn.

      - Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở đảm bảo kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực ngành nghề then chốt) thông qua việc: đẩy mạnh cổ phần hoá, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới.v.v. để tạo cơ cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các Tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng.

      - Lựa chọn các đánh giá, nhận định có chất lượng cả về lý luận và thực tiễn từ nhiều góc độ của các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm ở trong nước và ngoài nước để có những giải pháp khắc phục hạn chế, phát huy những ưu điểm.

      - Sớm hoàn thiện và kịp thời có những hướng dẫn cụ thể các căn cứ pháp lý đảm bảo cho hoạt động của các Tập đoàn kinh tế, có các chính sách linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ để tạo điều kiện cho các Tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động bình đẳng trong sân chơi cạnh tranh.

       - Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng. Đẩy mạnh thực hiện gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh, đảm bảo môi trường sinh thái.

      - Tăng cường phát triển thương hiệu, văn hoá doanh nghiệp, tích cực chia sẻ những khó khăn với cộng đồng và xã hội.

      - Hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của tổ chức Công đoàn và Đoàn Thanh niên trong các Tập đoàn.

Mô hình tập đoàn kinh tế là bước phát triển tất yếu từ sự tích tụ, tập trung vốn, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở Việt Nam, việc thực hiện thí điểm hoạt động các Tập đoàn kinh tế trong gần 5 năm qua là thể chế hoá và đưa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX vào cuộc sống; do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển mô hình này đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn mới là đòi hỏi khách quan và thực tiễn để xây dựng được những Tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế,thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước./.