Cần sớm tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các dự án điện khí LNG, điện gió ngoài khơi
Phát biểu tại Hội thảo Khoa học với chủ đề “Giảm phát thải khí nhà kính: Những cơ hội và thách thức đối với ngành Công nghiệp mỏ và Năng lượng Việt Nam”, TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho rằng, để hiện thực hóa cam kết của Chính phủ đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050, cần phải sớm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án điện khí LNG, điện gió ngoài khơi ở Việt Nam.

Lãnh đạo Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam và lãnh đạo Hội Dầu khí Việt Nam điều hành Hội thảo

Thông tin về tình hình thực hiện các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi (ĐGNK) theo quy hoạch điện VIII và quy hoạch năng lượng quốc gia, TS. Nguyễn Quốc Thập cho biết, các dự án được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành đến năm 2030 là 30.424 MW (23 dự án). Trong đó: Nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước là 7.900 MW (10 dự án); Nhà máy điện khí sử dụng LNG khoảng 22.400 MW (13 dự án). ĐGNK 6.000 MW.

Về tình hình đầu tư xây dựng, tính đến tháng 8/2024: Đã đưa vào vận hành: Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I (660 MW) năm 2015 (đang sử dụng nhiên liệu dầu) và sau đó sẽ sử dụng khí Lô B; Đang xây dựng: Dự án NMNĐ Nhơn Trạch 3 và 4, công suất 1.624 MW, tiến độ đạt hơn 90% (sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải); Đang trong quá đầu tư xây dựng có 18 dự án, trong đó: 9 dự án sử dụng khí khai thác trong nước, tổng công suất 7.240 MW; 9 dự án sử dụng LNG, Tổng công suất là 16.400 MW; 3 dự án đang lựa chọn nhà đầu tư, tổng công suất 4.500 MW; mới có 1 dự án ĐGNK được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ để khảo sát và nghiên cứu tiền khả thi giữa PTSC và đối tác Singapore.

TS. Nguyễn Quốc Thập đánh giá, để hiện thực hoá chuỗi dự án điện khí LNG và ĐGNK theo quy hoạch điện VIII và quy hoạch năng lượng quốc gia là thách thức lớn do gặp nhiều khó khăn, vướng mắc như: cơ chế chính sách trong phát triển các dự án điện, việc điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện, chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục Thẩm định, trình phê duyệt, phê duyệt bổ sung đối với các dự án đầu tư chưa có trong Quy hoạch; Cơ chế tài chính và thu xếp vốn khó khăn do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng (15% vốn điều lệ) khi cho vay theo quy định của Luật tổ chức tín dụng, do vốn cần thu xếp/huy động các dự án điện lớn.

Bên cạnh đó, hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ. Hiện chưa đủ cơ sở pháp lý để bảo lãnh thay thế bảo lãnh Chính phủ để có thể vay vốn/thu xếp vốn cho các dự án, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước như Petrovietnam, EVN, TKV…

Đối với phát triển các dự án điện khí LNG, ngoài việc thị trường tiêu thụ điện khí LNG chậm thì cơ bản nhất hiện nay đó là chưa có cơ chế bảo lãnh/bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG cho các dự án điện khí LNG.

“Chính vì chưa có quy định bên mua điện thực hiện bao tiêu sản lượng điện đối với điện khí LNG và Cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện khí LNG; Luật Giá hiện hành chưa quy định Cước phí nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa LNG thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá nên cước phí này sẽ được các bên liên quan đàm phán và thống nhất dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình đàm phán, ký kết Hợp đồng mua bán khí LNG và điện tương ứng” TS. Nguyễn Quốc Thập nhấn mạnh.

Cần sớm tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các dự án điện khí LNG, điện gió ngoài khơi

TS. Nguyễn Quốc Thập phát biểu tại Hội thảo

Để hiện thực hóa mục tiêu Chính phủ đã cam kết đưa phát thải ròng về "0" vào năm 2050 tại COP26 cũng như hiện thực hoá chuỗi dự án điện khí LNG và ĐGNK theo quy hoạch điện VIII, TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất và kiến nghị 6 nhóm giải pháp.

Nhóm giải pháp thứ nhất: Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ điện khí LNG theo sát với mục tiêu cung cấp khí điện LNG trong Quy hoạch điện VIII. Theo đó, xây dựng tập trung, đồng bộ các khu công nghiệp/nhà máy có quy mô tiêu thụ điện đủ lớn cùng với việc triển khai các dự án kho cảng và nhà máy điện khí LNG. Chính họ là các hộ tiêu thụ và là cơ sở quan trọng cam kết tiêu thụ điện (Qc) và khi đó, các cam kết trong Hợp đồng mua bán điện sẽ trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn. Đây cũng là chính sách giúp thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư loại hình khu công nghiệp/nhà máy cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG. Thêm vào đó, chúng ta cần có thêm các chính sách kích cầu về điện, kích thích sản xuất và kích thích tiêu dùng song song với khuyến khích tiết kiệm điện.

Nhóm giải pháp thứ hai: Đó là sớm sửa đổi Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Thuế và các nghị định hướng dẫn liên quan. Trước tiên và quan trọng nhất đó là cần phải chấp nhận chuỗi kinh doanh khí điện LNG hoạt động theo cơ chế thị trường và các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ thực hiện việc giám sát, hậu kiểm mọi quá trình hoạt động của chuỗi. Tiếp đó, cho phép các chủ thể các nhà máy điện khí được quyền đàm phán bán điện một cách cạnh tranh giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các hộ tiêu thụ điện. Đồng thời cho phép các nhà máy điện được quyền mua trực tiếp LNG và thuê kho cảng tàng trữ và tái hóa khí của kho cảng LNG. Song song với quá trình đó cần bổ sung khung thuế và phí phát thải CO2 trong Luật Thuế và Luật Bảo vệ môi trường.

Nhóm giải pháp thứ ba: Cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quy chế tài chính của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) và EVN. Việc Chính phủ không còn trực tiếp đứng ra bảo lãnh các Hợp đồng mua bán khí và mua bán điện là một quyết sách đúng, tuy nhiên với khung pháp lý hiện tại, Petrovietnam và EVN không đủ cơ sở để thực hiện bảo lãnh thay thế. Do đó, cần phải cập nhật và sửa đổi Điều lệ và Quy chế tài chính (liên quan đến quyền cam kết và thế chấp tài sản hay dòng tiền) của hai tập đoàn đã và đang tham gia vào chuỗi các dự án điện khí LNG nói riêng và các chuỗi dự án lớn khác nói chung. Khi đó, nút thắt về bảo lãnh Chính phủ sẽ được tháo gỡ.

Nhóm giải pháp thứ tư: Chính phủ hoặc Ngân hành Nhà nước vẫn cần cam kết và bảo đảm về khối lượng chuyển đổi ngoại tệ/nội tệ và tỷ giá sẽ do thị trường quyết định. Nhà đầu tư sẽ hoàn toàn được thuyết phục nếu chúng ta chấp nhận cách tiếp cận này và nút thắt sẽ được tháo gỡ.

Nhóm giải pháp thứ năm: Đó là tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế sâu rộng sẽ giúp chúng ta có cơ hội để: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách năng lượng nói chung và điện khí LNG nói riêng; Xây dựng và hoàn thiện mô hình quản trị đầu tư xây dựng, vận hành, khai thác sử dụng hiệu quả tối ưu điện khí LNG; Lựa chọn được các nhà đầu tư có tiềm lực về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm triển khai. Chúng tôi cho rằng, hợp tác quốc tế tốt và hiệu quả sẽ là một trong các điều kiện cần và đủ để hiện thực hóa các dự án khí điện LNG theo Quy hoạch điện VIII.

Nhóm giải pháp thứ sáu: Đó là thay đổi nhận thức và tư duy. Với một loại hình kinh doanh mới, chúng ta cần có cách tiếp cận mới, phù hợp và khả thi. Điện khí LNG không phải chỉ có nhà máy điện và kho cảng LNG, mà điện khí LNG cần được hấp thụ hay tiêu thụ bởi các hộ tiêu thụ điện công nghiệp đó là các khu công nghiệp hay các nhà máy chế biến và nói rộng hơn là nền kinh tế. Nhận thức về giá điện khí LNG cũng cần phải thay đổi và như đã đề cập ở trên, giá điện khí LNG bắt buộc phải theo cơ chế thị trường vì trọng số trong cấu thành giá điện khí LNG chủ yếu là giá LNG nhập khẩu.

Ngoài ra, TS. Nguyễn Quốc Thập cũng cho rằng, phải có các cam kết dài hạn về mua và bán khí LNG; về hợp đồng mua bán điện với khách hàng tiêu thụ điện… Từng bước triển khai thực hiện hiệu quả các dự án điện khí và ĐGNK theo Quy hoạch điện VIII và Quy hoạch năng lượng quốc gia.

Huy Tùng


Bình luận
Họ tên
Email
Mã xác nhận
 
 

Liên kết
Fanpage

​​​​​​​